26/10/2013

BÙI MINH QUỐC: TÔI ĐI TÌM QUÝ

Trong bài "Đau xót chuyện lừa đảo tìm mộ bằng ngoại cảm" có đăng lại bài viết từ blog Hồ Trung Tú nói về chuyện tìm mộ vợ là  nhà văn Dương Thị Xuân Quý của nhà thơ Bùi Minh Quốc. Mới đây, blog nầy nhận được bài viết của nhà thơ Bùi Minh Quốc kể lại toàn bộ quá trình đi tìm mộ vợ. Nhà thơ cho biết bài viết của ông được thực hiện 2 tháng sau khi kết thúc việc tìm mộ và đã được đăng ngay sau đó trên các báo Tiền Phong, Đại biểu Nhân dân, Gia đình & xã hội và một số báo khác. Cũng theo nhà thơ, năm 2007, bài viết được in lại nguyên văn trong sách "Dương Thị Xuân Quý - Nhật ký&Tác phẩm" (NXB Hội nhà văn).
 Tôn trọng ý kiến của nhà thơ là người trong cuộc, blog nầy xin đăng lại toàn bộ bài viết dưới đây để rộng đường dư luận. Rất tôn trọng quan điểm của tác giả thể hiện trong bài viết, tuy nhiên, đó không phải là quan điểm của blog nầy.


BÙI MINH QUỐC:             TÔI ĐI TÌM QUÝ

I

-Lạ lắm ông ạ ! Ông cố thu xếp trở lại Quảng Nam đi, về Bình Sa gặp ông Năm Chiến đi !
Nhà văn Nguyên Ngọc bảo tôi thế.Rồi anh kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí, mà có thật, diễn ra trước mắt anh : một ông tên là Năm Chiến vừa tìm được hài cốt người bạn anh, sĩ quan sư đoàn 2 Quân khu 5, hy sinh đã lâu trên vùng núi Quế Sơn.Chả là tôi cũng đã từng kể với Nguyên Ngọc việc tôi đi tìm không kết quả hài cốt vợ tôi, Dương Thị Xuân Quý, hy sinh tại thôn 2 (thôn Thi Thại) xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) huyện Duy Xuyên, trong một trận giặc Nam Triều Tiên càn quét chốt giữ dài ngày, không được chôn cất, đến nay vẫn không biết thân xác bị vùi lấp chốn nào.
Tháng 4 năm 1983, sau bao nhiêu công việc ngổn ngang của đất nước và gia đình thời hậu chiến, tôi mới thu xếp được chút thời gian và phương tiện để đi tìm Quý lần đầu tiên.Cùng đi giúp tôi có các anh Đoàn Xoa, Nguyễn Bá Thâm, Vũ Đình Thước trong Hội Văn Nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng là nơi tôi vừa chuyển công tác từ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ngoài Hà Nội vào nhận nhiệm vụ tổng biên tập tạp chí Đất Quảng được mấy tháng.
Chúng tôi về Thi Thại, một thôn nhỏ nằm trên bờ bắc sông Bà Rén. Phải vạch cỏ dại lút đầu người mới vào được đến cái giếng đất, là vị trí mà anh Hải và anh Mười, hai người cùng rúc hầm bí mật với Quý may mắn chạy thoát đã xác định Quý bị địch bắn và chắc đã chết tại đây.Sau năm 1975, mỗi lần về Thi Thại tôi không dám lần vào tới chỗ này vì khắp thôn chưa gỡ hết mìn, chỉ thắp hương bái vọng ở vành ngoài.Địch đánh phá quá ác liệt, Thi Thại trở thành thôn trắng dân từ giữa năm 1968, người chạy xuống thôn 3, xuống Xuyên Thọ, người chạy ra Hội An, Đà Nẵng hoặc tứ tán đi chẳng biết những đâu.Ban tuyên huấn huyện Duy Xuyên hồi ấy đóng cơ quan tại cái xóm trắng dân um tùm cỏ dại này và đương nhiên phải gài rất nhiều mìn khắp các ngả để phòng vệ, bình thường thì làm việc trong mấy căn hầm tránh pháo, khi địch lùng sục càn quét thì xuống hầm bí mật.Quý từ trên Khu xuống, cùng sống và làm việc với anh chị em tuyên huấn Duy Xuyên, sau chuyến đi Xuyên Hoà trên vùng tây của huyện trở xuống đây đang tranh thủ ngồi viết thì gặp trận càn. Đêm 8.3.1969, Quý theo Mười (du kích xã), Hải (đội viên đội vũ trang tuyên truyền huyện) từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát khỏi vòng càn, ra tới góc vườn có cái giếng đất thì Hải đi trước bị vướng mìn sáng, cả ba vội nhảy xuống giếng, địch xộc lại bắn, Quý trúng đạn gục ngã dưới chân Mười, Hải bị thương nhưng Mười, Hải cũng đã kịp ném lựu đạn phản kích và Mười cõng Hải chạy thoát, Quý nằm lại dưới giếng.Mười kể với tôi : “Chị Quý đứng phía vách giếng đối diện với luồng đạn, chị bị vào ngực khuỵu xuống ngay dưới chân em, giếng lại có nước đến gần thắt lưng, chắc là chị chết dưới giếng anh ạ”.Căn cứ vào đó, tôi đinh ninh nếu đào chỗ giếng đất lên chắc sẽ tìm thấy Quý.Phát hết cỏ, giếng bị lấp đất lâu ngày nhưng vẫn hiện rõ vành miệng và một phần thành giếng thoai thoải.Cả một ngày trời chúng tôi đào xuống tận lớp đất đen, đào thật rộng ra bốn phía mà chẳng thấy gì ngoài một chiếc mâm nhôm.Bà Dũng nhà ở liền kề bảo đó là chiếc mâm bà ném xuống để giấu địch trong một trận càn từ đầu năm 1968, nếu Quý nằm dưới giếng, chắc chắn hài cốt phải ở trên lớp đất có cái mâm.Cuối cùng, tôi đành hốt một ít đất dưới đáy giếng bỏ vào chiếc tiểu sành đem gửi ở nghĩa trang liệt sĩ xã Hoà Phước ven đường số 1gần Đà Nẵng để có chỗ đi về thắp hương vọng niệm.Từ đó lòng dạ hoang mang chẳng biết làm sao tìm được Quý. Những năm ấy chưa thấy xuất hiện những người có khả năng đặc biệt tìm được hài cốt bị thất lạc, thậm chí ý niệm về điều đó cũng chưa có, ít nhất là trong tôi.
Cho đến khi nghe câu chuyện ly kỳ của Nguyên Ngọc, tôi lại khấp khởi hy vọng.Ai nói thì tôi còn nghi hoặc, chứ Nguyên Ngọc thì tôi không thể không tin.Toàn bộ câu chuyện anh kể cho tôi nghe, sau đó anh đã viết thành bài đăng trên tạp chí Thế giới mới.
Thế rồi, một sáng sớm đầu tháng 4 năm 1995, tôi có mặt tại sân nhà ông Năm Chiến, ở thôn Bình Sa, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.Có được buổi sáng này cũng không dễ.Từ một tuần trước, tôi phải nhờ anh Ngọc phó bí thư huyện ủy Thăng Bình cũng là người cùng xóm và thân thiết với ông Năm Chiến đưa về tận nơi giới thiệu để xin chiếu cố tôi ở xa mãi trên Đà Lạt, được xếp vào diện ưu tiên, chứ nếu chờ lần lượt theo thứ tự thì chắc chắn phải cả tháng trời.Quanh sân nhà ông Năm Chiến và cả bên sân nhà hàng xóm kéo ra tới ngã ba con đường cát, người chờ đợi rất đông.Nhiều người trọ luôn ở đây, trong mấy túp nhà người ta dựng vội cho thuê, không có giường, chỉ mắc võng.Dịch vụ đã kịp mở ra.Kèm theo nhà trọ là mấy cái quán lợp tranh bán bún, mì, cà phê, bia, nước ngọt.
Với rất nhiều hy vọng ở khả năng đặc biệt của ông Năm Chiến mà báo chí và lời đồn đại đã đưa tên tuổi lan đi khắp nước, một người anh cọc chèo với tôi, anh Nguyễn Dy, liền cất công từ Hà Nội vào, dù lúc này anh đã quá lục tuần lại chẳng lấy gì làm khoẻ vì một tai nạn giao thông.(Mấy hôm sau, Bé Ly, con của tôi và Quý, đang rất bận vì nhiệm vụ phóng viên ở báo Phụ Nữ TP HCM cũng cố thu xếp công việc để bay ra).Mọi người thì thầm truyền tin cho nhau : ông Năm Chiến tuần trước được đón bay vào Sài Gòn tìm được nhiều mộ liệt sĩ lắm, vừa mới về hôm kia đã lại có xe đón đi Quảng Ngãi, sáng nay sẽ về.Mọi cặp mắt đều chăm chăm ngóng ra con đường cát, nhẫn nại chờ đợi.Cũng như anh em tôi, tất cả những người tới đây đều trĩu nặng trong lòng nỗi day dứt suốt bao năm về một người thân, về nhiều người thân đã mất, phần lớn vì chiến tranh, mà hài cốt còn nằm đâu đó, đâu đó, không biết chốn nào. Đôi lúc chợt ngỡ như cả dân tộc tôi thời hậu chiến đang đứng ngồi nhếch nhác chầu chực quanh cái sân này, giữa những đàn ruồi không ngớt vo vo trong cái nắng oi nồng của vùng cát miền Trung nghèo cực triền miên này.
Theo chỉ dẫn của một người đã tới đây nhiều lần, tôi viết sẵn một tờ đơn, nội dung ghi rõ : “…Kính mong Thầy giúp cho tìm hài cốt vợ tôi là liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý quê quán thôn Mễ Sở huyện Khoái Châu tỉnh Hải Hưng, hy sinh đêm 8.3.1969 tại thôn 2 xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng”.Một chồng đơn khá dày, phải đến hàng trăm tờ, đặt trên chiếc ghế đẩu dưới cái mái tôn vẩy ra che tạm bên hông nhà dùng làm quán cà phê.Trong lúc chờ đợi, tôi nghe hóng những chuyện người ta kể với nhau về các cuộc tìm mộ hết sức ly kỳ của ông Năm Chiến.Tình cờ tôi gặp lại ở đây một người quen cũ, anh Lê Tấn Minh, trước kia là trưởng ban tuyên huấn tỉnh đoàn TNCSHCM Quảng Nam – Đà Nẵng sau chuyển sang phụ trách lực lượng Thanh niên xung phong.Anh Minh kể với tôi rằng chính mắt anh đã chứng kiến ông Năm Chiến chỉ dẫn tìm thấy một bộ hài cốt dưới nền ngôi nhà trụ sở cơ quan anh đóng tại số 37 Lê Lợi Đà Nẵng.Tôi càng thêm tin tưởng và hy vọng.
Khoảng 7 giờ 30 ông Năm Chiến về. Đây là giây phút đầu tiên tôi được nhìn thấy con người huyền thoại này.Đó là một người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi, dáng gầy gầy dong dỏng cao, nước da ngăm đen, gương mặt dầu dãi như tất cả những người nông dân vùng cát miền Trung vốn chịu nhiều vất vả. Ông mặc bộ đồ âu giản dị, bên thắt lưng có đeo chiếc bóp hoặc bao kính gì đó, trên vai vắt chiếc khăn mặt. Ông thong thả lấy khăn lau mồ hôi, cúi chào mọi người rồi bước vào ngôi nhà ngói nhỏ ba gian, phía trái có thêm hai gian nhà ngang cũng lợp ngói.Gian giữa ngôi nhà chính là nơi đặt bàn thờ.Trên dãy bàn kê dọc trước bàn thờ bày đầy đồ cúng.
Ông Năm Chiến bước lại bộ phản trải chiếu hoa cạnh bàn thờ ngồi nghỉ, lưng dựa vào cửa sổ.Một bà cụ già khép nép đến bên ông, hai tay trịnh trọng trình một tấm giấy cứng khổ lớn, nài nỉ gì đó. Ông Năm Chiến đọc tấm giấy, giọng khổ sở :
-Trời, bác đem nguyên cả bản gốc tấm bằng bà mẹ Việt Nam anh hùng này đến đây làm chi, sao bác không phô-tô ra ?...
8 giờ 30, ông Năm Chiến xếp một chồng đơn lên bàn thờ rồi thắp hương khấn vái rất lâu.Khấn xong ở bàn thờ trong nhà, ông ra thắp hương ở bàn thờ ngoài trời nơi mép sân.Tiếp đó, ông trở vào ngồi trên chiếc ghế cạnh đầu bàn kê dọc trước bàn thờ trong nhà. Ông ngồi cúi đầu, hai khuỷu tay chống lên mặt bàn, trán gục vào đôi bàn tay chắp lại.
Bắt đầu giờ phút mà tôi cảm thấy là nghiêm trọng.Trong nhà ngoài sân im phăng phắc, không khí linh thiêng bao trùm.
Độ hơn mười phút sau, cả người ông Năm Chiến bỗng giật mạnh, giật mạnh.Một âm thanh gì đó như cuộn từ dưới bụng bật lên thành tiếng “ợ”… “ợ”…tựa hồ ông muốn ói mửa.Những cái giật và “ợ” theo nhau dồn dập hơn, mạnh hơn.Có cảm giác thân xác ông đang bị hành bởi một sức mạnh bí ẩn nào đó.Rồi ông loạng choạng đứng dậy, cặp mắt trợn trừng chỉ thấy lòng trắng, miệng nhểu dãi, ông chậm chạp bước từng bước ra hàng hiên, hai cánh tay đưa về phía trước, đôi bàn tay xoè như cánh ăng-ten đang bắt một làn sóng vô hình.
Bằng một giọng trọ trẹ như giọng Huế hoặc Nghệ Tĩnh nhưng phát âm hơi khó nghe, chắc chắn là khác hẳn giọng Quảng Nam ông nói lúc bình thường, ông bắt đầu gọi tên một người trong lá đơn đầu tiên trên xấp đơn được đặt lên bàn thờ khi nãy - xấp đơn lúc này vẫn nằm trong bàn thờ.Chính xác ra, không phải ông gọi tên, mà gọi họ.
-Họ…Nguyện !... Họ…Nguyện !...(họ Nguyễn)
Nhịp độ tiếng gọi chậm, nhấn từng âm một.
Theo cảm nhận bấy lâu nay của mọi người và họ nói lại cho tôi hay, thì đó không phải là tiếng gọi của ông Năm Chiến, mà là tiếng gọi của Ông.Ông đây nghĩa là một hồn thiêng nào đó – có lẽ từ thời xa xưa, phút này đã về nhập vào thân xác con người có tên là Năm Chiến.Tôi cũng có cảm nhận mang máng thế, nhưng cũng không dám hoàn toàn xác quyết.Thật khó diễn tả trạng thái này.Con người duy lý và con người tâm linh của tôi tranh chấp.Một mặt thực sự tin vào sự linh thiêng và thành tâm chờ đón điều kỳ diệu sắp hiển hiện, một mặt cái quán tính duy lý vẫn hoạt động và tỉnh táo quan sát.
-Họ…Nguyện !...
Thân chủ họ Nguyễn đã đứng chực sẵn gần đó, vội bước tới bên ông Năm Chiến, tay cầm giấy bút, ghi vội những lời Ông nói.Một người khác đưa chiếc máy ghi âm sát lại để hỗ trợ cho cây bút khó ghi kịp.
“Nhà ngươi rọ chưa ? Nhà ngươi rọ chưa ?” – Ông luôn nhắc lại câu hỏi đó, sau mỗi đoạn ra lời chỉ dẫn.Rồi Ông (trong thân xác ông Năm Chiến) quay vào nhà, đến bên bàn.Thân chủ trải vội tờ giấy trắng và đưa Ông cây bút. Ông vẽ sơ đồ chỉ dẫn tìm hài cốt…
Hết buổi sáng, xong được mười một trường hợp.Chưa đến lượt tôi.
Buổi chiều, đơn của tôi nằm ở vị trí đầu tiên.Thật căng thẳng những giây phút chờ đợi ông Năm Chiến thắp hương, khấn, ngồi tĩnh tại bên bàn tựa trán trên hai bàn tay chắp lại để Ông xuất hiện qua những cơn giật, rồi rời chỗ bước loạng choạng ra đứng trước thềm ngửa mặt lên và gọi.
-Họ…Bùi ! Họ…Bùi !
Tôi vội bước lại sát bên, giấy bút sẵn sàng, hồi hộp chờ nghe và ghi từng lời ông.Những lời ông nói cho tôi, nghe rất khó, chỉ rõ nhất là hai tiếng “họ Bùi” và mấy tiếng “nhà ngươi rọ chưa?” nhắc đi nhắc lại, cùng mấy tiếng lướt lướt mơ hồ mà tôi đoán là hình như nói về một dòng nước, hoặc nước, hoặc chỗ có nước và một bờ tre nào đó.Những tiếng mơ hồ ấy khiến tôi liên tưởng ngay đến dòng sông Bà Rén, cái giếng đất, cái bờ tre, những hình ảnh gắn liền với những giây phút cuối của Quý.
Ông Năm Chiến loạng choạng bước trở lại chỗ đầu chiếc bàn vừa ngồi khi nãy.Tôi biết đây là lúc vẽ sơ đồ như từ sáng tới giờ tôi thấy ông đã làm cho mọi người, vội tiến đến đặt mấy tờ giấy trắng và cây bút lên mặt bàn. Ông vẫn đứng, cầm lấy bút và vẽ rất nhanh.Mấy giây sau tôi đã có một tấm sơ đồ.Ba vệt loằng ngoằng cùng chiều như làn sóng chạy chéo trang giấy.Một vệt nữa cũng cùng chiều nhưng làn sóng nhỏ hơn, mau hơn.Cách ra một chút là một ô hình thang dài, phía cạnh nhỏ không thẳng mà vòng cung, bên trong có một chấm nhấn đậm và một gạch ngắn.Kề bên hình này là một khoanh tròn nhấn đi nhấn lại rất đậm, liền kề là một cái gạch một đầu nhấn đậm từ đó toả ra ba nét toé ngắn.Sau cùng là con số 1,2m viết hơi to hơn mấy hình kia.Thú thực là nhìn vào đó rất khó hiểu, tôi chỉ suy đoán bằng sự liên kết với những ấn tượng đã có.Tôi chỉ hình dung thấy dòng sông Bà Rén, bờ tre và cái giếng đất.Nhưng đối chiếu với thực địa thì lơ mơ lắm.Con số 1,2m thì chắc là chỉ khoảng cách, nhưng chịu không thể xác định đó là khoảng cách giữa vật chuẩn nào với chỗ cần phải đào, hay là phải đào sâu 1,2m? Tôi muốn hỏi lại để có được một lời giải thích rõ hơn, nhưng dường như bị “ám” bởi cái chất huyền bí của dạng ngôn ngữ âm âm dương dương lúc ấy nên tự nhiên tôi ngại ngùng không hỏi.
Trên đường trở lại Thi Thại, tôi và anh Dy cùng xem xét phân tích bản sơ đồ rồi cùng xác định : chỗ được khoanh tròn đậm là cái giếng đất, cứ đào sâu 1,2m và sâu hơn nữa, rộng ra bốn phía 1,2m và rộng hơn nữa.Cả một ngày đào không thấy gì.Thực ra chúng tôi đã lặp lại việc đào tìm của năm 1983.Hôm sau, tôi và anh Dy lại vào Bình Sa, lại đặt đơn xếp hàng chờ đến lượt.Khi đến lượt tôi, được nghe chỉ dẫn như sau, tôi ghi lại mấy câu đáng chú ý nhất : “…từ dưới hầm…mái tóc quá dài vướng cành cây…trúng chất sáng…giặc bắn chết trong hầm…nằm ven sông, hướng đông bắc…Đại Hàn chôn…khai quật chưa đến…trên 1,2m…”.Lời chỉ dẫn này khiến tôi bán tín bán nghi, bởi Mười và Hải đều khẳng định họ đã ra khỏi hầm cùng nhảy xuống giếng, Quý bị địch bắn hạ dưới giếng, các chi tiết này cùng chi tiết trúng chất sáng (tức là vướng mìn sáng) thì tôi đã viết bài đăng báo in sách nhiều lần nhiều người đã biết, không phải là một thông tin mới.Cái thông tin mới mà ông đưa ra thì lại sai, bởi mái tóc của Quý là mái tóc ngắn.Một thông tin mới nữa là Đại Hàn chôn khiến tôi không thể không nghĩ đến tình huống : sáng hôm sau cái đêm định mệnh ấy, địch kéo xác Quý từ dưới giếng lên và vùi lấp ở đâu đó.Nhưng ông Năm Chiến (tức Ông) lại nới : nằm ven sông, hướng đông bắc…Quả là cái giếng đất nằm ở hướng đông bắc con sông Bà Rén vốn chảy từ tây xuống đông, tại quãng này có một khúc quanh hơi chếch về phía nam, nhưng từ giếng đất vào tới bờ sông khoảng cách khá xa, dễ đến 300m, vậy nằm ven sông là ven như thế nào và lấy vật chuẩn nào để xác định được nơi cần đào tìm ? Chờ lúc ông Năm Chiến ở trạng thái bình thường, tôi đề nghị được đón ông ra Thi Thại để trực tiếp chỉ dẫn tìm kiếm trên thực địa nhưng ông bảo thời gian này đang có quá nhiều người sốt ruột đợi được phục vụ ngay, phải chừng tháng rưỡi hai tháng nữa mới đi được.Về lại Thi Thại giữa lúc buồn phiền bối rối thì mấy anh em trong xóm đang giúp tôi đào tìm, mách : ở xã Bình Tú (cũng thuộc huyện Thăng Bình) có ông thầy Tám hay lắm, không thua gì ông Năm Chiến nhưng ổng mới xuất hiện nên ít người biết, cứ vào mời ổng ra tìm trực tiếp tại đây thế nào cũng thấy.Tôi vội phóng vào Bình Tú.Hỏi thăm mãi mới tới nơi.Thầy Tám có lẽ chỉ khoảng 35-36 tuổi gì đó chứ không già như tôi hình dung qua cái tiếng thầy mà người ta tôn xưng. Ông sống trong một ngôi nhà cổ lợp ngói âm dương tàn tạ giữa khu vườn rộng đầy lá rụng.Vắng vẻ, quạnh hiu. Gọi mãi mới thấy ông từ vườn sau bước ra, đoạn đi rửa chân tay rồi tiếp tôi.Nghe tôi trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng, ông trịnh trọng mặc áo lễ nhận lễ vật đặt lên bàn thờ thắp hương và cúng. Ông bảo tôi ngồi bên cạnh ông, hơi lui lại đằng sau một chút, trong lúc ông đọc một bài niệm gì đó.Xong, ông bảo :
-Chỗ này, đông bắc có dòng thủy, nam có dòng thủy, bắc có dòng thủy, có bờ tre, đào sâu 9 tấc là thấy.
Tôi ngẫm nghĩ : đông bắc và bắc có dòng thủy thì quan sát trên thực địa chưa thấy, trừ phi đó là mạch nước ngầm, còn nam có dòng thủy thì đó chính là dòng sông Bà Rén ở cách những 300m, bắc có bờ tre thì quả thật phía bắc của giếng đất cách một quãng ngắn là cái bờ tre còn lại từ thời Quý hy sinh, hiện anh em đã đào tới gần sát chân tre.
Tôi mời ông ra thực địa để chỉ dẫn trực tiếp, ông nhận lời và bảo lúc này đã chiều muộn, về sắm lễ, gồm vàng mã, hoa quả và rượu, ngày mai 1g30 chiều đón ông, 3giờ làm lễ. Ông dặn thêm : ngày mai khi vào đón nhớ đem theo một nắm đất chỗ đang đào.Hôm sau, tôi vào đón ông lúc 11 giờ, sớm hơn dự định, để mời ông ăn trưa ở thị trấn Hà Lam (trên đường đi) cho tiện. Ông thấy vậy cũng được.Trước khi đi, ông đặt nắm đất tôi đem đến lên bàn thờ thắp hương cúng. Ăn trưa xong, trên đường ra Thi Thại, ngồi sau xe máy tôi đèo, có lúc ông Tám ghé tai tôi bảo : kỳ này tôi tìm được chị cho anh, anh viết bài đăng báo nghen ! Nghe ông nói thế, tôi không khỏi gợn lên một chút rầu lòng nghi hoặc nên chỉ ừ ào cho qua chuyện.Tuy vậy, tôi lại tự trấn an : lúc này là lúc ông Tám đang trong trạng thái bình thường với những ham muốn bình thường, còn cái khả năng đặc biệt thì đang chìm sâu và chỉ xuất hiện vào một khoảnh khắc nào đó, nhờ vào một cơ duyên nào đó, phụ thuộc vào những yếu tố nào đó mà mọi người, kể cả ông Tám chưa thể biết được.
3 giờ chiều, ông Tám thực hiện các nghi lễ cúng cầu bên miệng cái
hố anh em đang đào.Nghi lễ này lúc đầu cũng giống như chiều hôm trước ở nhà ông.Nhưng tiếp theo phải làm một công đoạn khác hẳn.Sau khi ông buông một lời phán : “Chỗ này có người chết treo !’ liền bảo tôi đến ngồi vào chỗ ông đang cúng. Ông tháo chiếc khăn sa tanh vàng đang quàng trên cổ quàng sang cổ tôi và bảo hai người ngồi hai bên từ từ siết lại như động tác thắt cổ.Một trong hai người ấy là anh Nguyễn Bá Thâm sau này kể lại rằng tôi bị thắt đến tím cả mặt mày.Tôi  thì lúc ấy tất nhiên chẳng thể biết mặt mũi mình ra sao, chỉ cố chịu đựng cái cảm giác ngộp thở để mong sẽ có một sự xuất thần kỳ diệu nào đó ở ông Tám.Còn ông Tám cầm bó nhang nghi ngút khói lầm rầm khấn khứa rồi đột ngột hô  “thôi !” đồng thời vừa ném mạnh bó nhang vừa hô tiếp “đào chỗ đó !”, tay chỉ về phía bó nhang vừa rơi.Chỗ bó nhang rơi là góc miệng cái hố đã được đào đến gần sát chân tre.Mọi người lập tức thay nhau vào việc.Trước hết phải bươi hết chỗ đất đã tấp thành vồng lớn bên miệng hố, chặt tre, đánh hết gộc tre để mở thêm mặt bằng. Đào rộng ra, đào sâu xuống.Tôi nhớ lại lời ông Tám nói chiều qua : đào sâu 9 tấc là thấy và hồi hộp theo dõi từng nhát cuốc, từng nhát xẻng.Nhưng đã quá 9 tấc, quá 1m cũng chưa thấy gì.Cứ đào tiếp, sâu đến chạm cả mạch nước (tôi mừng thầm : bắc có dòng thủy, hoá ra là có thật).Nước duềnh lên rất nhanh.Phải đi thuê gấp một chiếc máy bơm hút cạn nước rồi lại đào tiếp. Bùn lệt sệt.Phải múc từng xô bùn dòng dây kéo lên. Bỗng tôi nghe tiếng reo khẽ từ dưới hố sâu :
-Có xương nè !
Tôi nhoài người nhìn xuống hố.Rồi lại nghe tiếng nói :
-Mà tuồng như…như…Sao bự quá vậy hè ?
Nguyễn Bá Thâm ngồi cạnh tôi đón lấy coi, xì một tiếng thất vọng :
-È, xương bò !
Một lát sau, nghe ở dưới đáy hố tiếng cuốc chạm kịch kịch..Cuốc, xúc, moi, hối hả.Rồi thì anh em lôi ra một tấm ván ngấm bùn thâm đen.
-A, thôi rồi, chắc đây là ván lót hầm bí mật, hình như cái hầm này là của cánh Hội An.
Một người lớn tuổi, hẳn thuộc thế hệ đã tham gia kháng chiến và hiểu biết tình hình địa phương thời ấy, nhận xét.Tôi cũng đã được biết trên địa bàn thôn Thi Thại này thời ấy có nhiều đơn vị đứng chân, nào tuyên huấn Duy Xuyên, dân y Duy Xuyên, thị đội Hội An…Hầm bí mật thường đào ngầm dưới chân tre và hầm của đơn vị nào đơn vị nấy biết.Liệu còn gì trong hầm không ? Biết đâu…
Anh em moi tiếp và đào rộng ra nữa.Nhưng không tìm được gì ngoài tấm ván đã được lấy lên.Trời đã xẩm tối.Tôi và anh Dy quyết định kết thúc công việc trong nỗi thất vọng.Tôi đưa ông Tám trở về Bình Tú.Dọc đường, tôi an ủi ông : ngay như ông Năm Chiến thì hiệu suất tìm được cũng chỉ 70 – 80% .


II

Không còn hy vọng gì tìm được Quý, tôi quyết định dựng ở chỗ cái giếng đất cũ đó một tấm bia tưởng niệm.
Thu xếp mãi, 9 tháng sau, sáng ngày 15 tháng 1.1996 tôi mới có thể khởi hành từ Đà lạt.Tôi xuống Sài Gòn.Bây giờ nhớ lại tôi vẫn cứ thầm tự ngạc nhiên với mình về chuyện khi ra đi thực sự trong túi chưa có đồng nào cho cái việc quan trọng này.Tôi trông mong vào mấy khoản : chút tiền nhuận bút còm của tôi và chủ yếu là tiền bán búp bê của Thục vợ tôi (từ năm 1991, sau khi bị đưa vào diện giảm biên chế mặc dù là một phóng viên biên tập xuất sắc mấy năm liền chiến sĩ thi đua của đài phát thanh truyền hình Lâm Đồng, Thục buộc phải nghỉ việc và kiếm sống với đôi bàn tay khéo léo tạo ra những con búp bê bằng len rất dễ thương đem bán theo cách ký gửi).Cả hai khoản đều nhận ở Sài Gòn.Tiền búp bê thì nhận ở cửa hàng sách – văn hoá phẩm của vợ chồng nhà văn Lê Huy Khanh, nhuận bút thì ở mấy tờ báo, cũng phải chờ đợi cả tuần.Lại may sao trong khi chờ lấy được tiền thì các bạn Ý Nhi, Khánh Trâm và chú Lượng em rể biết tôi có việc, mỗi người giúp cho một ít.Tôi cũng điện cho Bé Ly biết kế hoạch để chuẩn bị góp thêm với bố.Mua vé xong lên tàu đi Đà Nẵng thì trong túi có được 1 triệu và con gái chạy vạy mãi mới góp được 8 trăm ngàn lật đật đem ra ga cho bố trước giờ tàu chạy mấy phút.
Ra tới Đà Nẵng, việc đầu tiên là tôi gặp nhà điêu khắc Phạm Hồng, người bạn thời kháng chiến, nhờ anh phác sơ trên giấy một tấm bia tưởng niệm dự định sẽ dựng bằng đá Ngũ Hành Sơn cỡ nho nhỏ phù hợp với số tiền mà bố con tôi có.
-Phác thảo thì dễ thôi, để làm sau, mà có lẽ cũng chả cần, bây giờ đi tìm đá trước đã.
Phạm Hồng lấy xe máy chở tôi qua bên kia sông Hàn vào Hoà Hải, nơi có làng đá Non Nước nổi tiếng.Đến con dốc từ ngã ba đường cái rẽ xuống, Phạm Hồng cho xe chạy từ từ giữa làng đá đang dần trở thành một phố đá, các cửa hàng bán tượng đá và đủ loại sản phẩm mỹ nghệ bằng đá mọc lên đã gần kín hai bên, các bãi đá nguyên liệu to nhỏ chất đầy dọc lề đường.Vòng đi vòng lại vài lần, bỗng Phạm Hồng ghé vào dừng xe trước một cửa hàng lớn có cái bảng hiệu rất độc đáo NGUYỄN VIỆT MINH, quay lại vỗ vai tôi :
-Chu cha, nhìn này, cái khối đá …
Chếch bên mép cửa hàng, trên nền cát lề đường, một khối đá trắng đặt nằm có dáng tự nhiên rất đẹp, hình trụ ngũ giác không đều, một đầu to thon dần về phía đầu nhỏ, vừa nhìn đã thấy mê.Mê, nhưng ngại.Vì nó quá lớn, đường kính đáy phải đến trên nửa mét, dựng lên thì cao phải đến trên 2 mét.Tôi thì thầm :
-Thích quá, nhưng làm sao mình mua nổi.
-Thì cứ hỏi giá thử coi.
Chúng tôi bước vào cửa hàng, gặp ngay ông chủ ra tiếp. Ông có gương mặt phúc hậu, đượm chút phong trần, trạc tuổi ang áng cũng ngang tôi với Phạm Hồng. Ông cho biết khối đá ấy giá 2 triệu rưởi.Tôi và Phạm Hồng im lặng nhìn nhau. Phạm Hồng thăm dò :
 -Có bớt được không ?
Ông chủ bảo không bớt được và giải thích rằng toàn bộ khu vực Ngũ Hành Sơn đã bị cấm khai thác đá, khối đá kia là ông mua từ Thanh Hoá chở vào định sẽ xẻ ra làm tượng nhỏ.
Chúng tôi đi quanh cửa hàng và ra cả bãi đất trống phía sau ngổn ngang những đá để ngắm chọn một khối đá nhỏ hơn vừa với túi tiền.Tôi ghé tai Hồng bảo khẽ: ông ấy có bớt chắc cùng lắm cũng chỉ vài trăm ngàn, mà chừng đó thì mình cũng chẳng mua nổi.Hồng bảo, ừ, nhưng mà nó đẹp quá, đúng với mong muốn của mình quá, chỉ cần để nguyên thế thuê thợ khắc văn bia vào, đích thân Hồng sẽ chạm phù điêu chân dung Quý bên trên văn bia rồi dựng lên là được một bia tưởng niệm đẹp và độc đáo hết ý.Quả thật sau cái phút nhìn thấy khối đá kia hai chúng tôi như bị hớp hồn, không còn thấy một khối đá nào hấp dẫn nổi mình.Hồng lại gạ bớt.Ông chủ bảo bớt cho hai trăm ngàn, và hỏi mua để làm gì ? Trong lúc tôi đang thầm tính đến việc sẽ đề nghị nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản tác phẩm của Quý và ứng trước nhuận bút để bù đắp vào khoản thiếu hụt thì Hồng giới thiệu về tôi với ông chủ, về sự hy sinh của Quý và hoàn cảnh của tôi hiện nay.Nghe xong ông chủ bảo bớt hẳn 5 trăm ngàn, chỉ lấy tròn 2 triệu.
Tôi đặt trước nửa tiền và tò mò hỏi thăm về cái bảng hiệu Nguyễn Việt Minh. Ông chủ đáp :
-Tên tôi.
-Vậy à ? Từ hồi đi học à ?
-Tên khai sinh ông già tôi đặt.Tôi trước là lính R20, cùng đơn vị với thằng Hiệp đó, tôi bị thương bị bắt, bị tù.
Vì hồi kháng chiến Phạm Hồng chỉ thạo chiến trường Quảng Nam nên tôi quay sang giải thích với anh: R20 là tiểu đoàn thiện chiến nổi tiếng của Quảng Đà, Hiệp là  Phan Hiệp, tên thật của Phan Hành Sơn, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà tôi quen từ cuối 1968.Tôi và Hồng cùng siết chặt tay Nguyễn Việt Minh, cái siết tay đặc biệt nồng ấm của những người cựu kháng chiến cùng một chiến trường thập tử nhất sinh.
Những ngày tiếp theo, tôi liên tục đi đi về về giữa Đà Nẵng và Thi Thại cách nhau 40km. Nào lo thủ tục hành chính, báo cáo và xin phép xã Duy Thành, lo tổ chức lực lượng thi công để đúc một khối bê tông thật chắc làm đế cho khối đá bia, lo viết văn bia rồi đưa hai ông giám đốc sở văn hoá và chủ tịch Hội văn nghệ thông qua nội dung, rồi thuê thợ đục.Cũng may mượn được chiếc xe máy khi thì của hoạ sĩ Hoàng Đặng, khi thì của nhà văn Đà Linh, đỡ tốn kém mà lại rất cơ động.Xin mua miếng đất chỗ giếng đất cũ để dựng bia, vợ chồng Võ Bắc bảo : chúng cháu không bán mà tặng chú để lo cho cô, là tấm lòng của chúng cháu đối với cô.Chuyện chi phí không còn là vấn đề phải bận tâm nữa.Nhà xuất bản Đà Nẵng tạm ứng cho một ít nhuận bút cuốn “Hoa rừng” của Quý sẽ tái bản, và sau khi báo tin cho gia đình cùng một số cơ quan, bạn hữu, tôi đã được hỗ trợ đủ số tiền cần thiết.Nhân đây, trên trang sách này, trong Tuyển Tập này, tôi xin trân trọng một lần nữa bày tỏ niềm tri ân chân thành với các cơ quan, các bạn hữu gần xa đã giúp đỡ tôi.Điều khiến tôi phấp phỏng lo lắng hơn cả là lúc chuẩn bị đưa thông qua văn bia, trong đó có một câu gan ruột của tôi, câu kết, nó thế này :
Dương Thị Xuân Quý để lại cho đời tác phẩm “Hoa rừng” và tấm gương ngời sáng của một nhà văn chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp độc lập cho dân tộc và tự do cho mỗi con người
Chính xác ra, nỗi lo của tôi là xoáy vào mấy chữ “ tự do cho mỗi con người”, chỉ e rằng nó sẽ bị hai ông giám đốc sở văn hoá và chủ tịch hội văn nghệ đòi cắt.Bởi tôi ngại cái tạng hai ông ấy.Cũng là bạn từ thời kháng chiến, cũng viết báo viết văn, nhưng làm quan lâu năm nên có vẻ gắn bó với chân ghế hơn chân lý (bao lâu nay, trên sách báo khi viết về lời kêu gọi không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ chủ tịch, người ta đều cố ý nói một cách chung chung : độc lập tự do của Tổ quốc).Nhưng may sao, có lẽ nhờ cái uy của hồn thiêng Xuân Quý, hai ông xem xong, nghe tôi hỏi “được không ?” thì đều gật đầu : “được !”. Tôi mừng hết lớn, vội đi thuê đánh vi tính in phóng lớn và đưa ngay cho thợ đá.
Ít có năm nào vào mùa khô rồi mà thời tiết những ngày hạ tuần tháng giêng dương lịch ấy ở Quảng Nam lại khó chịu đến vậy, chợt mưa chợt tạnh, nhiều khi mưa dầm dề, khi không mưa trời vẫn cứ âm u, ong ong oi oi. Đào hố móng cho chân đế bia vừa xong thì hố ngập nước, phải tạm dừng, mấy ngày sau làm tiếp, mãi 5.2.1996 mới xong.Sang phần vận chuyển khối đá bia, lúc đầu tưởng đơn giản, không ngờ lại phát sinh những tình huống thật căng thẳng.Cần phải một chiếc xe cẩu mới đưa lên hạ xuống nổi một khối đá nặng có lẽ đến hơn 2 tấn. Kiếm đâu ra xe cẩu trong hoàn cảnh tôi lúc ấy ? Tôi chạy đôn chạy đáo đến mọi chỗ quen biết có thể nhờ cậy cũng không kết quả.May có Ngô Tấn Kháng, người bạn thời kháng chiến mà tình thân thương ngày càng gắn bó bởi giống nhau một hoàn cảnh rất lao đao bầm dập thời hậu chiến, đối với công việc hệ trọng này của tôi Kháng luôn quan tâm chia vai gánh vác ngay từ đầu.Kháng đã chầu chực tận mười giờ đêm để gặp bằng được Nguyễn Bá Thanh chủ tịch thành phố Đà Nẵng khi ấy còn là đơn vị thuộc tỉnh để xin hỗ trợ cho tôi 2 triệu đồng - một số tiền lớn nhất trong các đơn vị đã hỗ trợ.Kháng bảo tôi : để tôi lo chiếc xe cẩu. Hôm sau Kháng báo tin đã mượn được xe cẩu.Nhưng gần tới ngày vận chuyển thì phát sinh trục trặc : chiếc xe cẩu yếu quá, chỉ cẩu được 1,2 tấn.Loay hoay một hồi, Kháng gọi điện cho biết : không dùng xe cẩu nữa mà dùng chiếc xe IFA của Ngô Tấn Thắng, em họ Kháng, xe này có ba-lăng tuy hơi thấp, nhưng Kháng đã mượn được chiếc ba-lăng chân cao ở chỗ ông San.Kháng dẫn Thắng sang Non Nước để đích thân nhìn thấy khối đá.Hôm đó là 10.2.1996.Hẹn nhau sáng hôm sau sẽ đưa khối đá vào Thi Thại.Tôi cũng nhờ Nguyễn Bá Thâm hôm sau sang Non Nước đi cùng chiếc xe tải để có vấn đề gì dọc đường thì giúp giải quyết, vì tôi phải vào Thi Thại lo công việc trong đó.Chúng tôi cùng bàn bạc và nhất trí thấy rằng có thể tổ chức lễ khánh thành vào 2 giờ chiều ngày 13.2.1996.Tôi thuê in giấy mời và gửi ngay.
Hôm sau, 8 giờ kém 15 tôi có mặt ở cửa hàng Nguyễn Việt Minh thì Kháng đi xe máy cũng vừa sang, báo một cái tin không được như ý : chiếc ba-lăng chân cao bị điều đi đột xuất, đành phải dùng ba-lăng chân thấp, chiếc xe của Thắng phải ra Hoà Khánh có việc độ hơn hơn 1 giờ rồi vòng đường Tứ Câu vì loại xe này bị cấm đi qua thành phố nên sẽ tới trễ nhiều so với giờ hẹn.
Trời mưa lui phui, chợt mưa, chợt tạnh.Trong lúc chờ xe, chúng tôi ngồi ở một cái quán cóc ven đường uống rượu hút thuốc vặt nhìn mưa, trò chuyện lai rai về cách mạng, kháng chiến, và thế thái nhân tình.Tôi bảo với Kháng : 10 giờ tôi có một cái hẹn.Chả là, từ hơn một năm qua ở Lâm Đồng tôi liên tục bị ép nghỉ hưu mặc dù còn 5 năm nữa mới đến tuổi, một số anh em nhiệt tâm ở Đà Nẵng đang vận động để tôi về đây làm việc, vừa tiếp tục đóng góp cho công việc chung vừa đỡ khó khăn gia đình.Sự vụ có vẻ êm xuôi, nghe nói bí thư tỉnh ủy Mai Thúc Lân đã đồng ý, muốn gặp tôi rồi quyết.Chiều qua, Nguyễn Đức Hạt, vốn là dân văn nghệ khu 5 giờ là ủy viên thường vụ trưởng ban tổ chức tỉnh ủy gọi điện cho tôi báo về cuộc gặp với Lân sáng nay, không thể xê dịch vào lúc khác được vì bí thư Lân phải đi Hà Nội họp.Tôi đang tính bỏ cuộc gặp này thì Kháng giục: anh cứ về tỉnh ủy đi, việc đưa khối đá lên xe đã có tôi ở đây lo.
Tôi về tỉnh ủy rồi trở lại Non Nước lúc 11giờ 15 thì xe IFA của Thắng vẫn chưa tới.(Một dịp khác, tôi sẽ kể về cuộc gặp Mai Thúc Lân từ 10 giờ đến 11 giờ hôm ấy).Lát sau thì Nguyễn Bá Thâm cũng tới.Nóng ruột về công việc trong Thi Thại, tôi nhờ Kháng và Thâm lo giúp mọi việc ở đây rồi vào Thi Thại.Mãi 3 giờ rưỡi chiều xe chở khối đá bia mới tới ngã ba Duy Ninh (chỗ rẽ từ đường số 1 xuống Duy Thành).Kháng bận việc đột xuất không vào được.Thắng cũng vậy. Người lái chiếc xe IFA có ba-lăng không phải là Thắng mà là cháu Công con trai Thắng.Xe rời đường số 1 rẽ xuống con đường đất được một quãng thì phải dừng lại trước ba-ri-e, một chiếc ba-ri-e cố định không có người gác dùng để ngăn xe tải lớn đi vào làm hư hại đường.Một tình huống quá bất ngờ khiến tôi bối rối lo cuống quýt vì trời âm u muốn mưa, lại đã chiều muộn.Nhờ Chính hớt hải chạy hết chỗ này chỗ nọ khá lâu vẫn không tìm ra người có trách nhiệm về cái ba-ri-e để xin cho xe qua.Cuối cùng phải nhờ anh Lâm, trước là bí thư đảng ủy xã nay là phó ban tuyên giáo huyện, nhà ở xóm dưới, lên chứng kiến để Chính tháo dây mở ba-ri-e cho xe qua.Xe về đậu trên đường cái gần ngã ba rẽ vào xóm Thi Thại, thả khối đá bia xuống.Chính cùng một số anh em trong xóm do Chính tổ chức giúp dùng ba-lăng đưa khối đá bia xuống thùng chiếc xe Bông Sen, rất may là phần lớn khối đá đã lọt được vào thùng xe.Tôi lo lắng hỏi Chính : không biết xe Bông Sen đi vào con đường xóm thế nào ? Chính bảo: đã cho dọn đường, thử xe, hơi khó một chút nhưng chắc là ổn cả.Lại xuất hiện một tình huống gay cấn mới : cháu Công đòi đưa chiếc ba-lăng về Đà Nẵng, vì không thấy ba cháu dặn vụ này.Tôi muốn kêu trời, không có chiếc ba-lăng thì ngày mai làm sao dựng khối đá bia lên ở cái vị trí mà không một phương tiện máy móc cồng kềnh nào tiếp cận nổi? Không cách gì thuyết phục được Công, tôi phải nài nỉ dẫn cháu đi một quãng khá xa mới tìm được nhà có điện thoại để gọi nhờ ra cho ba cháu.Nhưng ba cháu đi vắng..Tôi liền gọi cho Kháng.May sao Kháng có nhà.Nói qua tình hình cho Kháng rõ rồi đưa máy để Kháng nói với cháu Công, nghe bác Kháng nói một chặp cháu mới đồng ý để ba-lăng lại.Kháng dặn tôi cố gắng trưa mai đưa ba-lăng trả lại nhà Thắng chỗ đầu cầu Đỏ cửa ngõ Đà Nẵng, vì đây là công cụ làm ăn hàng ngày của gia đình Thắng.
Chiếc xe Bông Sen chở khối đá bia nhích từng gang tay trên con đường đất hẹp ẩm ướt.Bánh xe mơm mớm mép đường, một bên là bờ giậu một bên là ruộng lúa.Nhiều đoạn trơn trượt.Phải lấy ván lót bánh xe, qua hết chỗ lót lại rút ván lót tiếp.Tôi nhìn cái khối đá trên thùng xe cứ nghiêng nghiêng về phía ruộng mà lo thót tim, chỉ một nháy mắt sơ sẩy rủi ro khiến xe lật thì chắc là đá sẽ nằm mãi mãi dưới ruộng kia không biết đến bao giờ !
Xe cứ nhích lên, từng tấc từng tấc, trong bóng tối mỗi lúc thêm dày đặc.Khi đá bia vào đến được vị trí đã định, tôi nhìn đồng hồ, thấy đã 9 giờ.
Đêm ấy, ngả lưng trên chiếc võng gai dưới mái nhà tranh xập xệ của Bắc, tôi gần như không ngủ được vì mừng, thỉnh thoảng lại rời võng bước ra đứng ngắm khối đá. Đá đã về được đến đây như nhờ một phép màu, tôi thầm nghĩ thế.
Hôm sau, tờ mờ sớm tôi đã dậy chạy vội đi gọi nhờ điện thoại, bởi vừa chợt nhận ra một điều hết sức hệ trọng : phải gọi ngay cho Phạm Hồng tìm giúp người biết điều khiển ba-lăng nâng khối đá lên và đặt vào đứng ngay ngắn trên mặt đế.Việc này phải có chuyên môn, chứ không thể chỉ trông vào sức lực của anh em xóm Thi Thại.Tôi bước đi như chạy trên con đường làng đầy sương mù.Cửa hàng vật liệu xây dựng, nơi tôi gọi nhờ điện thoại chiều hôm qua vẫn còn đóng cửa, bởi người chủ về nhà tận bên kia sông.Phải chạy hộc tốc lên tận thôn 1, hỏi thăm lòng vòng mãi mới tìm được nơi có điện thoại là nhà ông phó giám đốc ngân hàng huyện.May sao cả hai vợ chồng ông đều đã biết từ lâu về trường hợp hy sinh của Quý và việc tôi đang dựng bia tưởng niệm nên vui lòng cho gọi nhờ ngay, rồi khi tôi xin trả tiền thì nhất định không lấy.Thấp thỏm làm sao khi bấm số cho Phạm Hồng, chỉ lo Hồng đã ra khỏi nhà thì lỡ hết việc.Tiếng Hồng ở đầu dây kia khiến tôi thở phào.Nghe tôi nói sơ qua yêu cầu, Hồng bảo sẽ gọi ngay cho Kinh.Lại chỉ lo Kinh đi vắng.Mấy phút sau tôi gọi lại, Hồng báo tin Kinh sẽ vào, khoảng 7g30 đến nơi.
Kinh là người luôn sát cánh giúp Hồng thi công các tượng đài đã nhiều năm nay, anh vào đây thì tôi có thể yên tâm.
7g45 Kinh vào.Anh hướng dẫn anh em đặt ba-lăng, chặt tre đóng cọc giằng néo để tạo một đối lực.Cũng khá gay go.Nền đất mềm lún nên rất trầy trật.Cứ nâng khối đá lên gần đứng được thì ba-lăng lại bị hẫng chân, phải hạ xuống.Xoay vị trí ba-lăng đến ba lần.Cuối cùng khối đá cũng đã được đặt đứng ngay ngắn trên đế.Tôi thở phào.Mọi người thở phào.Xem đồng hồ, thấy đúng 9 giờ.Buổi sáng ấy trời rất đẹp. Đó là ngày 12 tháng 2 năm 1996.
Từ đấy hàng năm tôi đều cố thu xếp mọi việc ở Đà Lạt để về đây một hai lần.Lòng tôi vẫn mơ màng Quý cũng nằm quanh quất đâu đây thôi.Tôi gặp làm việc với UBND xã Hoà Phước xin dỡ bỏ ngôi mộ tượng trưng tại nghĩa trang liệt sĩ đằng ấy.Nhân tiện xin kể thêm, suốt thời gian dựng bia, hễ cứ nghe anh em mách bảo ở đâu có “thầy” là tôi lại tranh thủ tìm đến.Nhưng chỉ sau vài câu “phán” của “thầy” là nhận ra ngay hạng bịp bợm.Chẳng hạn một buổi tối tôi được dẫn sang Duy Vinh, xã liền kề Duy Thành.Trong ngôi nhà tôn nền đất trống trải, lạnh lẽo và tối om, thấy một ông “thầy” còn trẻ cùng người “phụ tá” ngồi cạnh chiếc bàn gỗ mộc có chiếc đèn dầu liu hiu.Sau mấy thủ tục đầu tiên(đặt một món tiền nhỏ vào cái đĩa và thắp nhang), thì ông “thầy” duỗi chân vặn mình ợ oẹ, liếc qua cũng thấy ngay là động tác giả, miệng xổ một tràng âm thanh quái dị ra điều là “hồn” đang “phán” đấy, vụng về đến mức tôi cố nén để khỏi phì cười.Gã “phụ tá” phiên dịch rằng “hồn” bảo nhà ngươi phải cúng một chiếc Dream đời mới thì “hồn” chỉ chỗ cho.Tôi ậm ừ gật gật làm bộ lắng nghe rồi vội cáo lui. Đại khái thế, cái tâm trạng khắc khoải thường trực đã cuốn tôi đến vài ba chỗ hắc ám như thế ở Duy Xuyên, Điện Bàn thời gian ấy.
Mỗi lần về đây tôi được vợ chồng Võ Bắc cho biết, vào các ngày lễ, tết, cơ quan chính quyền,đoàn thể thanh niên, phụ  nữ, văn nghệ địa phương đều có đến đặt vòng hoa và thắp hương tưởng niệm Quý.Việc hương khói thường xuyên thì tuy không nghe kể nhưng tôi biết vợ chồng Bắc luôn chăm lo chu đáo. Đời sống nhà Bắc năm sau đều khá hơn năm trước, Bắc khoe thế.Và đặc biệt, sau ba đứa con gái đầu, năm 1999 vợ Bắc bỗng sinh thêm được thằng con trai.
Dựng xong bia tưởng niệm Quý, tôi và gia đình hầu như không tính đến việc tìm kiếm nữa.Nhưng đầu năm 2000, có ai đó cho tôi bản photocopy bài viết của anh Trần Phương, nguyên phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng, thuật lại một cách chi tiết việc tìm được hài cốt em gái anh, chị Vũ Thị Kính (sau được phong anh hùng), nhờ khả năng đặc biệt của anh Nguyễn Văn Nhã và cô Phan Thị Bích Hằng.Lòng tôi lại trỗi dậy niềm hy vọng.Tôi viết thư trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng với anh Nguyễn Văn Nhã, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết.Mươi hôm sau anh Nhã gửi cho tôi một bản sơ đồ khá chi tiết kèm lời dặn dò phối hợp lịch làm việc để khi tiến hành tìm kiếm thì nhận sự chỉ dẫn qua điện thoại di động.Một ngày tháng 5 năm 2000, tôi về Thi Thại.Tôi báo tin ra Hà Nội, vợ chồng anh Dy chị Mai, các cháu Linh, Hoa, con chị Phương ( chị cả của Quý) cũng vào ngay.Bé Ly của chúng tôi thì đã đi làm việc ở nước ngoài nên không có mặt trong chuyến tìm kiếm này.
Cái sơ đồ mà anh Nhã gửi cho, khi đối chiếu với thực địa khiến chúng tôi rất lúng túng.Tuy nhiên, tôi tin ở khả năng đặc biệt của anh Nhã qua việc tìm được chị Vũ Thị Kính nên nhất nhất làm đúng theo lời anh chỉ dẫn bằng điện thoại di động, đào điểm này không thấy lại đào điểm khác.Suốt ba ngày, chúng tôi đã đào 6 chỗ, trong vườn nhà Võ Bắc và vườn, ruộng mấy nhà hàng xóm ở cả bốn hướng : tây, tây bắc, tây nam, đông nam.
Không thấy gì.
Tôi nói với anh Dy :
-Xác xuất là 75% , mình ở trong cái 25% không may mắn anh ạ.
Mà anh Nhã cũng đã bảo trước với tôi như thế để khỏi bị hẫng hụt.
Chiều ngày thứ ba, chị Phương gọi điện từ Hà Nội vào cho biết chị vừa đi “gọi hồn” Quý ở cô Phan Thị Bích Hằng, được nghe lời Quý qua cô Hằng bảo đừng tìm nữa (cần ghi chú thêm : cô Bích Hằng đã giúp tìm lại được mộ ông nội tôi qua đời từ năm 1945, sau bị thất lạc).
 Chúng tôi quyết định ngừng tìm kiếm.Anh Dy chị Mai và các cháu trở ra Hà Nội, đem theo một ít đất bốc tại chân bia tưởng niệm về Hà Nội rồi về đặt vào ngôi mộ tượng trưng của Quý trong nghĩa trang họ Dương lập từ lâu đời tại quê nhà Phú Thị, Mễ Sở, Hưng Yên.Nhắc đến chi tiết này tôi không khỏi buồn lòng nhớ đến một việc cho tới giờ vẫn còn cảm thấy nhói đau.Trong cuộc tìm kiếm không kết quả và dựng bia tưởng niệm Quý, một buổi chiều nọ bỗng có hai công an viên từ huyện xuống.Mới đầu cứ ngỡ họ xuống cơ sở vì chuyện gì đó, nhưng sau thấy Bắc bảo : chú Quốc ơi, mấy anh công an huyện muốn gặp chú.Tôi thầm tự hỏi, quái, có chuyện gì mà công an cần gặp mình? Hay là cái chuyện về mấy gã “thầy” bịp bợm đêm nào? Tôi ra ngồi chiếc bàn gỗ mộc duy nhất đã ọp ẹp của nhà Bắc để làm việc.Sau mấy câu mào đầu, hoá ra họ hỏi tôi về đây làm gì, đã đăng ký tạm trú chưa ? Tôi suýt muốn phì cười mà bụng tức anh ách. Đã bao nhiêu lần tôi về đây, bà con và anh chị em chính quyền ở đây quá biết tôi và những việc tôi làm ở đây, có lần nào có ai hạch hỏi nửa lời về việc khai báo tạm trú đâu, sao lần này công an huyện đốc chứng làm ra quan trọng vậy ? Tuy nhiên, tôi vẫn giữ vẻ mặt nghiêm chỉnh để làm việc với họ và hoàn tất các thủ tục khai báo tạm trú.Chuyện chỉ có vậy nhưng rồi lại được lặp lại khi tôi ra Hà Nội cuối thu năm ấy.Một vết cứa đã rỉ máu không thể lành miệng trong lòng tôi, và hiện thành bài thơ này :
Hà Nội anh về không hộ khẩu
Chiều lặng độc hành cùng nắm đất Duy Xuyên
Đêm xuống, thu tàn, người bảo khai tạm trú
Trời thẳm lòng hồ nhói một sắc xanh nguyên.
(Sau khi Quý hy sinh, tôi làm bài thơ tưởng niệm có câu “Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên”).
Tôi ở lại Thi Thại thêm mấy ngày và tìm gặp anh Ba Lữ (Võ Thế Lữ), nguyên xã đội trưởng xã Xuyên Tân (Duy Thành) vào thời gian Quý hy sinh.Tôi gặp anh vì một việc khác, không ngờ lại nhận được một thông tin rất giá trị.Anh Ba Lữ kể, anh là người đầu tiên dẫn anh em du kích vào thôn 2 (Thi Thại) ngay sau khi bọn Nam Triều Tiên rút đi.Trước đó anh đã được nghe anh em báo cáo khu vực Thi Thại có hai người hy sinh là chị Quý nhà báo và ông Hiểu cán bộ thôn. Ông Hiểu thì tìm được ngay nhờ thấy một nấm đất đắp sơ sài trên có cắm cây thập giá buộc bằng que tre, còn chị Quý thì không thấy đâu, nhưng gặp một chỗ ruồi bu rất nhiều liền tổ chức đào bới mà cũng chẳng thấy gì ngoài những cành tre gộc tre chồng chất rối bời.Chi tiết này thật mới đối với tôi, hồi giờ chưa từng nghe ai nói.Tôi vội chở anh Ba Lữ tới thực địa nhờ anh chỉ cho cái chỗ đặc biệt đáng chú ý ấy, và nhờ Bắc, Chính đào ngay.Không đầy 30 phút sau, ở độ sâu chừng 60-70cm, dưới lòng một giao thông hào đã bị lấp, tôi tìm thấy một tấm dù hoa màu cỏ úa.Chỗ ấy chỉ cách vị trí dựng bia tưởng niệm (giếng đất cũ) hơn 5m.
Chị Nguyễn Thị Một, nay là chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng Nam, là người sống cùng những ngày cuối của Quý, do đi công tác trước trận càn nên thoát được, đã xác nhận “đó chính là tấm dù chị Quý đã dùng”.



III

Sau những lần tìm kiếm vô vọng từ năm 1983 đến năm 2000, cuối cùng mới có cơ duyên cho tôi gặp được đúng người cần gặp, đó là anh

 ĐẶNG XUÂN BA,
        NGƯỜI CHỈ ĐÚNG NƠI QUÝ NẰM

Đầu năm nay,2006, anh Nguyễn Trung An một lần đến nhà tôi, bảo :
-Ông Quốc à, có việc rất quan trọng tôi cần nói với ông…
Anh Nguyễn Trung An hơn tôi gần chục tuổi, trung tá cựu chiến binh, nguyên phó chủ tịch thường trực Hội văn nghệ Lâm Đồng, chúng tôi là đôi bạn vong niên thường qua lại nhà nhau chuyện trò về văn chương, thế sự.
Nghe anh nói vậy với một giọng thì thầm hơi có vẻ bí mật, tôi hồi hộp nhìn anh chờ đợi.
-Ông Quốc có nhớ ông Ba, bố vợ thằng Dũ không ?
-Nhớ…
-Ông Ba thế mà có khả năng đặc biệt lắm đấy, ổng đã tìm được nhiều mộ liệt sĩ bị thất lạc, nhưng rất kín tiếng không cho đưa tin. Ông Ba có ngỏ ý riêng với tôi rằng muốn giúp anh Quốc tìm chị Quý, nhờ tôi nhắn : khi nào anh Quốc sắp xếp được thời gian về Quảng Nam thì cho biết để ông ấy cùng đi.
-Vậy à ? Hiện nay anh Ba đang ở đâu ?
-Ông bà ấy đã chuyển về Sài Gòn lâu rồi, có nhà dưới ấy rồi, nhưng riêng ông Ba vẫn thuê một căn phòng trong khu tập thể cơ quan ở Đà Lạt đây, bên phường 10, để làm trạm liên lạc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, bữa nào ông thong thả tôi đưa sang ổng chơi.
-Dạ, dạ…tôi còn bận ít ngày, để bữa nào rảnh tôi sẽ điện sang anh.
Khoảng mươi hôm sau, một buổi tối, anh An dẫn tôi tới nhà anh Ba.
Tôi quen anh Ba từ ngót hai chục năm trước. Ấy là do con rể anh, nhà báo Lưu Hữu Nhi Dũ lúc ấy vừa tốt nghiệp đại học về làm ở cơ quan tôi, Hội văn nghệ Lâm Đồng.Từ khi vợ chồng Dũ chuyển xuống Sài Gòn tôi ít có dịp gặp lại, và anh Ba thì hoàn toàn không gặp nữa từ sau một lần Dũ đưa tôi sang uống rượu với anh bên khu tập thể của nhà nghỉ công đoàn tỉnh, nơi anh đang công tác sau khi chuyển ngành từ quân đội ra.
Tối hôm đó gặp lại anh Ba tôi mới được biết tên họ đầy đủ của anh là Đặng Xuân Ba.Anh kể, anh người họ Đặng Xuân ở Nam Định, ông nội vào làm quan ở Điện Bàn thời triều Nguyễn, cha lấy vợ Quảng Ngãi, định cư ở Quảng Nam, anh tham gia bộ đội đánh Pháp tại đây rồi tập kết ra Bắc, năm 1965 lại đi B, thuộc một đơn vị thông tin của Bộ Tổng hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên.Anh cũng kể, vợ anh, chị Dương Thị Tuyết Minh với Dương Thị Xuân Quý vợ tôi có thời gian cùng học phổ thông cấp 2 ở Hà Nội, vẫn nhớ và hay nhắc lần Quý lên Thái Nguyên công tác đã đến đơn vị thăm Minh khi chị đang trong quân ngũ.
Chúng tôi bàn việc đi tìm Quý.Tôi kể lại vắn tắt về các lần tìm kiếm trước đây.Tôi cũng không giấu việc các chị ruột của Quý đã đến gặp cô Phan Thị Bích Hằng để “gọi hồn”, được nghe lời Quý qua cô Hằng bảo đừng tìm nữa, từ đó tôi và gia đình quyết định ngừng tìm kiếm.Anh Ba yên lặng một lát rồi hỏi tôi về mọi chi tiết trong những giây phút cuối của Quý.Tôi kể lại tất cả những gì tôi đã được nghe từ Mười, Hải.
Tôi cùng anh Ba xem lại công việc của mỗi người để có thể chắt ra một quãng thời gian hợp nhau cùng về Quảng Nam.Lịch công việc của anh Ba rất sít sao, dày đặc lời hẹn với các gia đình liệt sĩ trên nhiều vùng đất nước.Thế rồi sau mấy lần nữa liên lạc qua điện thoại, chúng tôi thống nhất sẽ lên đường ngày 1 tháng 8.2006.Anh Ba đi xe của vợ chồng anh Thanh, một gia đình liệt sĩ có người em vợ hy sinh ở khu vực đèo Mang Giang thuộc tỉnh Gia Lai và người anh ruột hy sinh ở một xã thuộc vùng tây Duy Xuyên. Cùng đi có anh Nguyễn Đình Mai, đại tá cựu chiến binh, nguyên thành đội trưởng thành đội Đà Lạt.Tôi bảo anh Ba cứ đi đèo Mang Giang trước (xuất phát lúc 4 giờ sáng), tôi đi chuyến xe đò buổi chiều về thẳng Tam Kỳ, hẹn sẽ gặp nhau dưới đó sau khi anh đã xong việc ở Mang Giang rồi cùng ra Duy Xuyên.
Tôi đổi xe lúc 7 giờ tối ở Nha Trang, xe chạy suốt đêm  và thả tôi xuống Tam Kỳ lúc 6 giờ 30 sáng ngày 2 tháng 8.2006, thuê xe ôm về trụ sở Hội văn nghệ Quảng Nam ở nhờ.Tôi thổ lộ với anh Nguyễn Bá Thâm phó chủ tịch thường trực Hội, mục đích của chuyến về lại Đất Quảng lần này, và chuyện này tôi cũng chỉ nói riêng với Thâm, trong gia đình tôi cũng chỉ nói riêng với Thục vợ tôi trước khi đi, ngoài ra không ai biết cả, bởi trong lòng hầu như không còn hy vọng, nói ra lại khiến mọi người trông chờ phấp phỏng, điều mà tôi không muốn.
Tối 2.8, tôi gọi điện cho anh Ba.Anh báo tin : đã tìm được hài cốt liệt sĩ ở Mang Giang, ngày mai sẽ đi theo đường Ngọc Hồi (Kontum) ra Phước Sơn rồi xuống Tam Kỳ.Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau ở Tam Kỳ vào ngày mai.
Sáng hôm sau, 03.08, tôi thầm tính : anh Ba đi từ Mang Giang vòng ra Phước Sơn, chắc cũng phải trưa hoặc đầu buổi chiều mới tới Tam Kỳ.Tính vậy, bèn mượn Nguyễn Bá Thâm chiếc xe máy phóng ra Duy Thành (Duy Xuyên) để thắp hương khấn Quý và nói chuyện trước với vợ chồng Võ Bắc, nhờ Bắc giúp thuê sẵn người chuẩn bị ngày mai (4.8) sẽ đào tìm.Tôi dự liệu việc đào tìm cũng phải vài ba ngày.Tính vậy nên đi người không, trưa sẽ trở lại có mặt ở Tam Kỳ để đón anh Ba.
Nhưng sự việc diễn tiến vượt ngoài mọi dự liệu.
Khoảng mười giờ kém, tôi nhận được điện thoại của anh Ba. Anh hỏi :
-Anh đang ở đâu ?
-Tôi đang trên đường ra Duy Xuyên.Anh đang ở đâu ?
-Chúng tôi đang đi trên đường số 1, đã gần tới Thăng Bình.
Lúc ấy tôi đang dừng xe cách thị trấn Hà Lam huyện lỵ huyện Thăng Bình khoảng hơn 1km, bèn dặn ngay anh Ba :
-Vậy tôi chờ các anh ở bưu điện Thăng Bình ngay bên đường số 1 chỗ góc ngã tư Hà Lam rồi ta cùng ra Duy Xuyên.
Mười lăm phút sau chúng tôi gặp nhau, tôi chỉ đường cho người lái xe rồi hướng dẫn ra Duy Xuyên, xuống thẳng Duy Thành.Xe đậu ngoài đường cái, gia đình anh Thanh cùng anh Mai ngồi lại trên xe, tôi chở anh Ba bằng xe máy vào thôn Thi Thại.Lúc ấy khoảng 10g30.
Anh Ba đứng trước bia tưởng niệm Quý, đọc văn bia, nhìn quanh bốn phía xem xét địa hình, hỏi lại tôi một lần nữa các chi tiết diễn biến trước giây phút cuối của Quý trong đêm 8.3.1969, bảo tôi chỉ trên thực địa vị trí tìm thấy tấm dù, vị trí bờ tre và giao thông hào xưa kia như thế nào.Anh cũng hỏi Võ Bắc về địa hình mà Bắc thấy từ khi về ở trên khuôn viên này. Yên lặng một lát, anh Ba bảo :
-Tôi nghĩ là ở hướng này !
Anh khoát tay chỉ về hướng tây bắc, tính từ vị trí đứng quay mặt vào bia tưởng niệm (bia dựng quay về hướng bắc).Rồi anh đi về hướng anh vừa chỉ đó, qua cạnh giếng xây, gần bên cây rơm và chuồng bò, qua bụi chuối xuống vườn bắp, vòng qua vòng lại một chặp, trở về trước sân, bảo :
-Chiều, hai giờ mình làm.
Tôi dặn Bắc thuê giúp người đào, anh Ba bảo :
-Không cần nhiều đâu, hai người thôi.
Bắc nói :
-Vậy đã có cháu đây, kêu thêm một người nữa thôi.
Anh Ba dặn mua ít trái cây, tôi nói Hảo vợ Bắc mua giùm luôn.Tôi đèo anh Ba trở ra đường cái chỗ xe đậu rồi cùng vợ chồng anh Thanh và cựu đại tá Mai lên một quán cơm trên đường số 1 ăn trưa. Ăn xong mới hơn 12 giờ.Thấy còn sớm, vợ chồng anh Thanh cũng nóng lòng muốn lên phía tây Duy Xuyên, nơi anh có người anh ruột hy sinh tháng 11 năm 1967, trong giấy báo tử ghi là xã Xuyên Mỹ.Tôi hỏi anh chủ quán cơm : Xuyên Mỹ ngày xưa giờ gọi là Duy gì, thì được cho biết là Duy An.Trao đổi ý kiến một lát, vợ chồng anh Thanh nhất trí buổi chiều nay anh Ba tập trung tìm kiếm ở Thi Thại, và anh Ba quyết định vào việc sớm, không đợi đến 2 giờ.
Chúng tôi trở lại Thi Thại lúc 12g30.
Anh Ba đặt đĩa trái cây trước bia tưởng niệm, bảo tôi thắp hương khấn.
Thắp xong ba nén hương, tôi khấn : “Quý ơi, hôm nay có anh Đặng Xuân Ba cùng về đây giúp anh cố tìm em một lần nữa, em linh thiêng hãy cho anh lần này được thấy em, nếu em cho thấy, thì xin cho âm dương” .
Anh Ba hướng dẫn tôi cách cầm và gieo hai đồng tiền cổ trên chiếc đĩa sắt tráng men.Tôi gieo hai lần đều không được âm dương.Bỗng thấy một bàn tay đặt nhẹ trên vai trái, tôi ngoảnh sang, thì ra anh Mai, anh ghé tai tôi bảo
 nhỏ :
-Ông quì xuống đã rồi hãy xin.
Tôi quì xuống.Bao lâu nay khi cúng giỗ trong nhà hay mỗi lần về đây thắp hương tưởng niệm Quý, tôi chỉ đứng vái rồi cúi xuống cắm hương. Đây là lần đầu tiên tôi quì.
Tôi gieo lần thứ ba.Hai đồng tiền hiện ra âm dương.
Anh Ba dẫn tôi đi lên hướng tây bắc cách bia tưởng niệm khoảng 25m, cạnh một bụi chuối chỗ góc vườn bắp, bảo tôi thắp hương và gieo xin âm dương.Tôi gieo và được ngay âm dương.Anh Ba bảo tôi cắm hương chỗ đó, và anh lấy một que tre cắm làm mốc cách ba nén hương độ hơn gang tay. Xem đồng hồ, anh bảo :
-Bây giờ 1 giờ kém mười lăm, để 1 giờ mình đào.
  Chúng tôi vào nhà uống nước trò chuyện một lát đến 1 giờ thì trở ra vị trí ấy.Nhưng khi Võ Bắc và cháu Nam ( gọi Bắc là cậu ruột) sắp động thổ thì anh Ba bảo khoan hãy đào.Anh đứng yên lặng một lát rồi bước đi khoảng hơn   2m chếch về hướng tây bắc ra rìa bên ngoài vườn bắp và chỉ xuống chân :
-Đây, đào chỗ này !
Anh bảo tôi đứng thay vào chỗ anh, chỉ tay xuống đất để anh chụp ảnh, rồi lấy xẻng chấn một khuôn hình chữ nhật 2m x 0,70m.Bắc và Nam bắt đầu đào.Ban đầu là lớp đất mượn.Khoảng hơn nửa tiếng sau, hết lớp đất mượn, ở độ sâu hơn 1m, Bắc đưa lên cho anh Ba một mẩu gì đó màu nâu hồng cỡ bằng ngón tay út :
-Hình như là xương chú ạ.
Anh Ba cầm lấy, nhìn, và bảo :
-Đúng, xương.
Anh đưa tôi coi.Tôi cầm lấy coi, chỉ biết vậy, chưa hiểu thế nào, khẽ hỏi anh Ba : “Sao lại màu nâu hồng anh nhỉ ?”.Anh bảo : Ở trong đất lâu năm, nó màu như vậy”.Bắc và Nam vẫn tiếp tục đào. Độ hơn 5 phút sau, nhát xẻng của Bắc lật ra một vật gì sáng sáng.Bắc nhặt lên đưa anh Ba :
-Hình như cái kẹp tóc, chú à.
Anh Ba cầm lấy coi, bảo :
-Đúng, cái kẹp tóc.
Anh lau sạch đất bám trên mặt chiếc cặp bằng đuy-ra, thấy hiện ra hình ngôi sao ở chính giữa, hai bên là hình hoa mai nối tiếp hình trái tim.Anh gỡ lớp đất bám dày ở mặt sau, thấy lộ ra hai cọng giây thép đã rỉ, bên dưới là một lớp nhựa đệm màu nâu xỉn.Anh dùng ngón tay khơi nhẹ lớp nhựa đã mục, gãy một miếng nhỏ.Anh khơi tiếp.Gãy một miếng lớn hơn.Và…
Sự huyền diệu bỗng hiển hiện.
Trước mắt tôi, trên mặt sau chiếc cặp là hai chữ X Quý. Bên dưới là chữ EI.Anh Ba khều hết lớp nhựa, thấy hai chữ TẶNG CHỊ trước hai chữ X QUÝ.

TẶNG CHỊ X QUÝ
     EI

Anh Ba trao chiếc cặp tóc cho tôi.
Tôi nhìn dòng chữ có thật đó trên tay mà ngỡ như mình đang nhìn trong chiêm bao.Tất cả đều khắc kiểu chữ in, riêng chữ x khắc kiểu chữ thường, như một cánh hoa.Khắc bằng cách dùng vật nhọn, một mũi dao găm chẳng hạn, ấn mạnh xuống từng chấm sâu nối nhau tạo thành chữ.Tôi nghĩ EI chắc là trung đoàn1.Chắc một chiến sĩ nào đó của trung đoàn 1 (thuộc sư đoàn 2 Quân khu 5) đã tặng Quý (hôm sau tôi điện hỏi anh Nguyên Ngọc, được anh cho biết thời gian cuối 1968 đầu 1969, có các đơn vị của trung đoàn 1 đứng chân ở Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên).
Điều không thể đã thành có thể.Tôi đã tìm thấy Quý.
Mấy phút sau Bắc nhặt đưa lên hai chiếc khuy áo nhỏ xíu màu xanh lá cây, trên mặt khuy có chữ LEVIS.Rồi tiếp tục đưa lên các mẩu xương lớn hơn.Anh Ba chỉ cho tôi thấy, và bảo, như vậy là đầy đủ tứ chi và một mảnh xương sọ.
Quả thật tôi đã tìm thấy Quý.
Tôi nhìn đồng hồ : 13g50.Từ lúc động thổ đến lúc thấy, không đầy 50 phút.Khoảng gần 9g đêm 8.3.1969 Quý ngã xuống trên mảnh đất này.2 giờ kém 10 chiều nay, 3.8.2006, sau 37 năm, tôi tìm thấy Quý.Không phải là ngày mai, 4.8 như tôi dự liệu, mà là hôm nay, 3.8.
8.3 – 3.8. Thật lạ, tôi thầm nghĩ.
Lúc này tôi mới gọi điện báo tin cho gia đình, cho Nguyễn Bá Thâm, người luôn có mặt cùng tôi từ cuộc tìm kiếm đầu tiên năm 1983 tới nay. Thâm báo tin lại : nửa tiếng nữa sẽ có mặt cùng anh chị em đài truyền hình Quảng Nam và phóng viên Trung Việt của báo Tiền Phong.
Anh Ba hốt hết đất chỗ Quý nằm có màu khác với đất chung quanh, chắc là đã thấm hết trong đó toàn bộ phần còn lại của di hài Quý, chuyển lên tấm vải liệm trắng, trải một lớp dày, đặt trên đó các mẩu xương theo vị  trí  thân thể, và liệm.Tôi đặt Quý vào chiếc tiểu sành mà cháu Chính (anh rể của Võ Bắc) mua giúp vừa kịp mang về đúng lúc.Tôi đắp cho Quý một lá cờ đỏ sao vàng và đậy nắp tiểu.  
Sau khi gọi điện trao đổi ý kiến thống nhất với gia đình, được sự đón nhận của vợ chồng Võ Bắc,  tôi cùng hai cháu Bắc, Chính, hai người luôn có mặt với tôi trong các cuộc tìm kiếm từ năm 1995 tới nay, tiến hành cải táng cho Quý ngay sau bia tưởng niệm, nơi từ khi Quý ngã xuống đã thành một địa chỉ tâm linh của tôi.Và của cả bao người.
Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên…

Đà Lạt 3.10.2006
                                                 
BMQ
Nhà thơ Bùi Minh Quốc bên mộ vợ - nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý        
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Và thông tin về nhà ngoại cảm Dương Xuân Ba được đăng trên báo Tiền Phong năm 2006

"Nhà ngoại cảm" rởm ngụy tạo hài cốt liệt sĩ
TP - Chiến tranh đã lùi xa sau hơn 30 năm, song biết bao nhiêu gia đình vẫn còn mang nặng trong lòng nỗi đau mất mát. Đặc biệt với những trường hợp chưa tìm được hài cốt của người thân thì nỗi đau dường như nhân lên và họ lại càng nóng lòng tìm kiếm hơn ai hết.
Chính ông Nguyễn Đình Nhu một cán bộ về hưu ở phường Bắc Hà (thị xã Hà Tĩnh) và gia đình ông nằm trong trường hợp đó.
Theo lời ông Nhu kể, ông có người em trai là liệt sỹ Nguyễn Hữu Điền – quê ở Kỳ Tây, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, đi bộ đội và hy sinh năm 1968 tại chiến trường Quảng Trị. Từ đó đến nay, qua nhiều lần tìm kiếm, ông vẫn chưa tìm thấy mộ phần của em trai mình.
May sao, qua bạn bè đang làm việc ở tỉnh giới thiệu, ông Nhu gặp hai “nhà ngoại cảm” là ông Đặng Xuân Ba, quê ở Xuân Trường, Nam Định, nghỉ hưu tại TP Đà Lạt và ông Nguyễn Đình Mai, cán bộ Hội CCB tỉnh Lâm Đồng, nhận lời tìm giúp mộ em trai ông.
Vốn đã từng biết tiếng “hai nhà ngoại cảm” này qua dư luận và qua loạt bài phản ánh họ thành công trong việc tìm mộ anh hùng liệt sỹ Lê Xuân Phôi đăng trên một tờ báo lớn ở Trung ương, các gia đình bèn mời hai ông giúp đỡ và tổ chức thuê xe ô tô về huyện Hướng Hóa (Quảng Trị ) bắt đầu cuộc tìm kiếm.
Cùng đi còn có ông Nguyễn Văn Tuệ (công tác ở Cty CP mía Lam Sơn  - Thanh Hóa) thân nhân của liệt sỹ Nguyễn Văn Tám và các ông Nguyễn Đình Thạch (cán bộ đội CSĐT Công an Kỳ Anh), Nguyễn Đình Lộc (cán bộ sở Thương mại – Du lịch Hà Tĩnh).
Khởi tố, bắt tạm giam “nhà ngoại cảm” lừa đảo Đặng Xuân Ba
11 giờ 30 trưa ngày 15/10, chúng tôi tìm đến 6 Hàm Nghi, thị xã Đông Hà (Quảng Trị) gặp Thượng tá Đỗ Xuân Hồng - Chính trị viên Ban Chỉ huy quân sự huyện Hướng Hoá đang nghỉ ngày Chủ nhật cùng gia đình.
Thượng tá Hồng kể vắn tắt: “ Việc tìm thấy các hài cốt liệt sĩ ở xã Húc ngày 18/9/2006 quá dễ dàng, đơn giản khiến lãnh đạo và Ban CHQS huyện Hướng Hoá nghi ngờ 2 “nhà ngoại cảm” Đặng Xuân Ba và Nguyễn Đình Mai.
Tôi, với tư cách Chính trị viên đã chỉ đạo Thiếu tá Biền Văn Sự, cán bộ Ban CHQS huyện là người tham gia cùng đoàn phải cảnh giác, khôn khéo kịp thời phát hiện hành vi lừa đảo nếu có (...).
Tại Nhà khách UBND huyện Hướng Hoá- nơi cả đoàn tìm hài cốt trú chân, Ban CHQS phối hợp với Công an huyện lập biên bản kiểm tra hành lý của 2 “nhà ngoại cảm” Ba và Mai thì phát hiện dấu hiệu lừa đảo khá rõ.
Sau đó, 2 ông Ba và Mai bị Công an huyện ĐaKrông bắt tại xã Pa Nang (giáp với xã Húc của huyện Hướng Hoá).
Chiều 15/10, trao đổi qua điện thoại với Tiền phong, Thượng tá Hồ Quang Thân - Trưởng Công an huyện và Trung tá Nguyễn Thành Đặng - Phó trưởng Công an huyện ĐaKrông cho biết: “ Ngày 26/9/2006, Công an huyện ĐaKrông đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đặng Xuân Ba với tội danh “lừa đảo”.
Hiện bị can Ba đang bị giam tại Trại tạm giam CA huyện. Đây là 1 vụ án phức tạp, các nạn nhân bị “ nhà ngoại cảm” lừa với số lượng khá nhiều và “rải” khắp cả nước.
Còn ông Nguyễn Đình Mai đã được trả tự do về Lâm Đồng vì ông chỉ là người được ông Ba...  rủ đi chơi”.      
Hữu Thành
Đến cơ quan quân sự huyện Hương Hóa ngày 17/9/2006, đoàn được các đồng chí trong ban chỉ huy sốt sắng giúp đỡ. Đơn vị cử cả thiếu tá Biền Văn Sự đi theo dẫn đường.
Theo lời kể của ông Tuệ, ngày thứ nhất diễn ra khá suôn sẻ. Nhờ sự chỉ dẫn của “hai nhà ngoại cảm” đoàn đã tìm thấy “hai mộ” liệt sỹ qua hai lọ pê-ni-si-lin trong đó có các mảnh giấy viết họ tên, quê quán liệt sĩ, kèm theo một ít xương.
Sự việc diễn ra quá nhanh chóng và đơn giản khiến thân nhân hai gia đình liệt sĩ đều tỏ ý nghi ngờ. Về phần mình, thiếu tá Biền Văn Sự cũng nhận thấy sự khác thường trong quá trình tìm kiếm và phát hiện ra hài cốt liệt sĩ của “hai nhà ngoại cảm” nên đề nghị ngừng đào và mời tất cả về cơ quan quân sự huyện để làm việc.
Tại khách sạn Khe Sanh – nơi cả đoàn thuê nghỉ, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Hóa phối hợp cùng Công an huyện lập biên bản kiểm tra hành lý của hai ông Đặng Xuân Ba và Nguyễn Đình Mai.
Qua kiểm tra, phát hiện ra họ cất dấu 6 lọ pê-ni-ci-lin, mỗi lọ có bọc ni-lông màu xanh, còn bên trong lọ đều có các mảnh giấy ghi tên người: Diễn, Hội Tước, Trung...
Hành lý của hai “nhà ngoại cảm” chẳng có gì ngoài các thứ nói trên và 14 túi ni-lông màu trắng đựng những mẩu xương vụn màu đen và màu trắng bạc.
Có 13 mẫu giấy trắng cỡ 2x4cm, trong đó có 3 mẫu ghi sẵn tên: Ninh Văn Quang, Nguyễn Hữu Điền, Lê Viết C. Theo ông Nhu, ông Tuệ, các lọ đựng giấy, túi đựng xương này rất giống với những thứ mà hai “nhà ngoại cảm” nhặt ra từ các hố mà họ bảo thân nhân liệt sĩ đào bới.
Vụ việc đang được các cơ quan có trách nhiệm xem xét, làm sáng tỏ. Song căn cứ vào thực tế kiểm tra và các bản tường trình của các ông Nguyễn Văn Tuệ và Nguyễn Đình Nhu – nhân thân của hai liệt sĩ – cung cấp cho huyện đội và công an Hướng Hóa, có thể khẳng định đây là một vụ lừa đảo. 
Khắc Hiển












               

2 commentaires:

  1. Không nhận xét là hay nhất.

    RépondreSupprimer
  2. Lạ thật! Một nhóm người vô thần lại tin chuyện ma quỷ.....Thua.

    RépondreSupprimer