29/05/2015

Về sự kiện ngày 17/2/1979 – đôi điều suy nghĩ



         Vũ Dương Ninh

  1. Ba mươi sáu năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta (17/2/1979 – 17/2/2015). Và cũng là kỷ niệm 36 năm cuộc chiến đấu kiên cường của quân dân ta nhằm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Từ bấy đến nay, nhất là vào mỗi dịp kỷ niệm năm chẵn sự kiện này (1989, 1999, 2009), báo chí Trung Quốc và thế giới đều lên tiếng nhìn nhận, đánh giá. Nhưng các phương tiện truyền thông Việt Nam thì im lặng một cách khó hiểu. Tháng 5/2014 vừa qua, nhân phản ứng mạnh mẽ trong cả nước về việc Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan HD 981 trong vùng thềm lục địa Việt Nam, người ta chợt nhận ra rằng chỉ có mươi dòng trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 nhắc đến sự kiện này[1]. Cùng với nhiều câu hỏi thắc mắc, bức xúc. Thực ra, trong cái thường được gọi là “tế nhị” (?!), việc đưa được mươi dòng vào sách giáo khoa cũng đã là một cố gắng của các tác giả, tất nhiên là chưa đủ.

Trong khi đó, cuốn Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949 – 2001)  dành nhiều trang cho sự kiện này với nhiều điều xuyên tạc. Họ viết: “ Xuất phát từ yêu cầu phản kích quân Việt Nam xâm lược, yêu cầu bảo vệ an ninh và hòa bình ở vùng biên cương, xuất phát từ tư duy chiến lược hạn chế bá quyền khu vực Việt Nam, từ đó phản kích chủ nghĩa bá quyền Liên Xô tại Đông Nam Á, bộ đội biên phòng Trung Quốc đã tiến hành phản kích tự vệ vào ngày 17 tháng 2 năm 1979”[2]. Như vậy, “phản kích tự vệ” là luận điệu chính của Bắc Kinh để che dấu động cơ thực sự của cuộc chiến tranh này, đổ lỗi cho Việt Nam, thậm chí còn lên giọng kẻ cả “dạy cho Việt Nam một bài học”. Vậy sự thực nằm ở đâu?
2. Tên gọi một cuộc chiến tranh phản ánh nội dung và bản chất của cuộc chiến tranh đó. Nhưng nhìn nhận về bản chất lại phụ thuộc vào chỗ đứng của mỗi bên, vào lập trường quan điểm của mỗi phía.

Nhiều học giả phương Tây gọi các sự kiện 1975 - 1979 là cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ  ba để phân biệt với lần thứ nhất (1945-1954) và lần thứ hai (1954 – 1975). Cũng có người đi vào bản chất hơn, gọi đó là cuộc Chiến tranh giữa những người anh em Đỏ (Red Brotherhood at War) nghĩa là cuộc chiến giữa ba nước do ba đảng Cộng sản lãnh đạo.

Còn cái gọi là “cuộc phản kích tự vệ” của Trung Quốc nhằm mục đích gì? Có thể gói gọn trong mấy ý sau đây: a) “đỡ đòn” cho sự thất bại của bè lũ Khmer Đỏ được Bắc Kinh nuôi dưỡng bấy lâu, nay bị dánh bật khỏi Phnom Penh, hàng ngũ tan rã, b) mở đường đi xuống Đông Nam Á giành lấy “khoảng trống quyền lực” ở khu vực do Mỹ để lại sau năm 1975, c) lấy cuộc chiến bên ngoài làm dịu mối mâu thuẫn trong nước còn dai dẳng sau thời kỳ “đại cách mạng văn hóa vô sản”, d) cuối cùng là “món quà” tặng Mỹ sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên sang thăm Mỹ, nhằm tranh thủ dư luận Mỹ và khoa học công nghệ Mỹ phục vụ công cuộc hiện đại hóa Trung Quốc, đồng thời lôi kéo Mỹ trong cuộc đấu tranh chống Liên Xô. Dưới chiêu bài “phản kích tự vệ”, họ đưa ra luận điệu đề phòng sự bao vây của Liên Xô ở phía Bắc và của Việt Nam ở phía Nam. Nhưng dù bất cứ lý do gì thì trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược vào lãnh thổ Việt Nam, một quốc gia độc lập, có chủ quyền.

Phùng Quang Thanh
3. Còn Việt Nam? Có một sự thực là mờ sáng 17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, đi sâu vào đất liền tàn sát cư dân, đốt phá và cướp bóc các thành phố, thị xã, làng mạc. Với hành động xâm phạm lãnh thổ một nước có chủ quyền bởi những lý do ngụy tạo thì không có tên gọi nào đúng hơn rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược. Và để chống trả hành động xâm lược, quân và dân Việt Nam, trước hết là các tỉnh biên giới, đã anh dũng chiến đấu, đẩy lùi quân xâm lược, bảo vệ biên cương lãnh thổ. Rõ ràng đó là một cuộc Chiến tranh Biên giới chống xâm lược hoặcChiến tranh Biên giới bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn rộng ra, trong giai đoạn này đã diễn ra ba sự kiện phản ánh cùng một nội hàm. Đó là vụ quân Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và cuộc chiến đấu của quân đội  Việt Nam Cộng hòa chống xâm lược bảo vệ biển đảo nhưng không thành công. Đó là những vụ xâm lược của lực lượng Khmer Đỏ với sự trợ giúp của Trung Quốc trên dọc biên giới Tây Nam nước ta trong những năm 1977-1978 và cuộc tiến công giáng trả của Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng lực lượng cứu nước Campuchia nhằm quét sạch chế độ diệt chủng tàn bạo Polpot và bảo vệ biên giới Tây Nam nước nhà. Đó là vụ tấn công xâm lược biên giới phía Bắc như vừa nói ở trên. Do vậy, tên gọi chung của các sự kiện này nên gọi là Cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc (bao hàm cả biên giới đất liền và biển đảo Việt Nam).

4. Hằng năm, nước ta tổ chức nhiều ngày kỷ niệm lịch sử, mức độ, quy mô lớn nhỏ khác nhau nhưng đều có ý nghĩa tưởng nhớ những trang sử hào hùng của dân tộc, tri ân những tấm gương hy sinh của các liệt sĩ. Điều đó đi vào lòng dân được nhân dân hưởng ứng. và đi vào tâm hồn thế hệ trẻ, khắc ghi một quá khứ gian truân nhưng rất đỗi hào hùng của các bậc tiền bối.

Lịch sử dân tộc ta từ ngàn xưa đã ghi nhận công lao của biết bao vị anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh thân mình vì nền độc lập của đất nước. Các chiến sĩ đã ngã xuống trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hằng năm đều được tưởng niệm bằng nhiều hình thức của Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân, của các tổ chức tôn giáo. Những hoạt động đó nói lên lòng biết ơn của toàn dân và những tấm gương hy sinh vì nước luôn là bài học lịch sử cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Ba mươi sáu năm đã trôi qua từ sự kiện năm 1979. Các đia phương xảy ra chiến trận đã có sự quan tâm nhất định đến nơi an nghỉ của các liệt sĩ, song trên phạm vi cả nước vẫn còn một khoảng trống nào đó trong chủ trương, chính sách của Nhà nước, và do vậy đã tạo nên một khoảng trống nào đó trong lòng dân.
Cho nên, việc tổ chức kỷ niệm trọng thể các sự kiện năm 1979, việc tri ân những liệt sĩ đã đổ máu vì mảnh đất thiêng liêng ở biên giới đất liền và hải đảo của Tổ Quốc là điều không thể chậm trễ hơn. Về xu hướng chính trị, mỗi người đều có thể tự xác định cho riêng mình, song là con dân đất Việt, tất cả chỉ có một Tổ Quốc, đó là Tổ quốc Việt Nam. Và những ai đã từng ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược để bảo vệ non sông thì đều xứng đáng và đều cần được tôn vinh bởi vì họ là người Việt Nam và đã hy sinh vì Tổ quốc Việt Nam. Đó chính là nền tảng bền vững của sự hòa hợp dân tộc trong thời đại ngày nay.
5. Thế hệ những người đã kinh qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đều ghi sâu vào trí nhớ lý luận về bốn mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ, bao gồm mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa phong trào giải phóng dân tộc với chế độ thực dân và giữa các nước tư bản với nhau. Chính mâu thuẫn giữa các nước tư bản đã dẫn tới hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX. Như vậy phải chăng là không hề có mâu thuẫn giữa các nước XHCN! Lý thuyết đó, vào một thời kỳ lịch sử đã không sai nhưng cũng không đúng. Cuộc chiến tranh biên giới Trung - Xô năm 1969, rồi đến chiến tranh biên giới Trung – Viêt năm 1979 đã minh chứng điều không đúng đó.
Những thế hệ của các thập niên 50, 60, 70 đã thấm nhuần vào máu thịt tư tưởng về “sự giúp đỡ vô tư, khẳng khái” của các nước anh em XHCN, về tình cảm “trong sáng, thủy chung”,“như môi với răng” trong quan hệ quốc tế XHCN. Sự giúp đỡ ấy, tinh thần ấy trên thực tế đã tạo nên một trong những nhân tố quan trọng đưa hai cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Người Việt Nam, trước sau như một, luôn ghi nhớ sự giúp đỡ của chính phủ và nhân dân các nước XHCN.
Với niềm tin vững chắc như vậy thì cuộc tấn công xâm lược từ phía Bắc vào Việt Nam năm 1979 thực sự là một cú sốc lớn về tinh thần và tình cảm đối với người dân Việt. Sự thực phũ phàng đó đã xé toang tấm màn che đậy những lời hay, ý đẹp. Nó lộ rõ thực chất của thời cuộc là sự đồng nhất về ý thức hệ không còn là lý do để gắn kết lực lượng trong cuộc đấu tranh chung mà chính lợi ích quốc gia đã trở thành động lực chi phối thái độ và hành động trong quan hệ quốc tế. Nhất là khi lợi ích đó là lợi ích dân tộc hẹp hòi, vị kỷ của nước lớn thì những lý thuyết về ý thức hệ đều trở thành vô nghĩa, thậm chí nguy hại vì nó tạo nên sự mơ hồ trong nhận thức tình hình, trong cách nhìn nhận đối phương. Chính trong sự “bất ngờ” năm 1979 có yếu tố mơ hồ về bản chất và thái độ của người đồng chí năm xưa, từ đồng minh trở thành đối thủ.
Ngày nay, lịch sử đã qua đi nhưng kinh nghiệm lịch sử vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó nhắc nhở nhiệm vụ của những người nghiên cứu lịch sử là không được để sự kiện 17/2/1979 rơi vào quên lãng, chìm trong im lặng mà sau này con cháu không hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Đó không chỉ là là sai lầm mà là tội lỗi với các thế hệ mai sau.
Hà Nội, tháng 2 năm 2015
 


[1] Sách giáo khoa viết: “Trung Quốc là nước láng giềng thân thiết của Việt Nam. Trong đấu tranh cách mạng, nhân dân hai nước đã từng gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng việc tập đoàn Pon Pốt có hành động thù địch chống Việt Nam, Trung Quốc lại đồng tình ủng hộ. Trung Quốc còn có những hành động làm tổn hại đến tình cảm giữa nhân dân hai nước, như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, dùng sự kiện “nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia nhằm gây khó khăn cho Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, từ sáng 17/2/1979, Trung Quốc cho quân đội với lực lượng 32 sư đoàn mở cuộc tiến công dọc biên giới phía Bắc nước ta từ Móng Cái (Quảng Ninh) đén Phong Thổ (Lai Châu) dài hơn nghìn cây số.
Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc đã đứng lên chiến đấu. Đến ngày 18/3/1979, quân Trung Quốc rút khỏi nước ta”. Bộ Giáo dục và đào tạo. Lịch sử 12. Sách giáo khoa thí điểm. Ban Khoa học xã hội và nhân văn. Nxb Giáo dục, H.2007, tr. 280 - 281
[2] Tạ Duy Hiển (chủ biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949 – 2001). Bản dịch tiếng Việt (đánh máy) tr. 295
 
 



Quảng Cáo

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire