PHẠM ĐÌNH TRỌNG
1. Khi chưa có chính quyền, những người cộng sản
liền vu cho chính phủ hợp pháp và là chính phủ tập hợp được những trí thức có trí
tuệ uyên bác và mặn nồng yêu nước, chính phủ Trần Trọng Kim là tay sai của giặc
Nhật rồi kích động bạo lực nhân dân cướp quyền của chính phủ hợp pháp đó. Suốt
70 năm qua, tất cả tài liệu, sách báo của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đều
phải thú nhận với lịch sử rằng cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp
chính quyền. Hành xử kẻ cướp tất nhiên là bất chính và bất minh.
Có
chính quyền cướp được trong tay, những người cộng sản cầm quyền lại vu cho những
người Việt Nam có tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, thành phần ưu tú nhất của
dân tộc Việt Nam là kẻ thù của giai cấp vô sản rồi dùng bạo lực nhà nước thẳng
tay đàn áp, tiêu diệt. Những chiến dịch đấu tố, bỏ tù, giết hại những người Việt
Nam yêu nước, lương thiện và tài năng diễn ra dồn dập gối đầu sóng từ khi mới
có chính quyền Xô Viết ở một miền quê Nghệ Tĩnh đến tận hôm nay. Khi dữ dằn hung
bạo như cuộc truy lùng tận diệt của gậy gộc giáo mác “Trí phú địa hào, đào tận
gốc, trốc tận rễ” trong Xô Viết Nghệ Tĩnh. Khi sôi sục hận thù giết cho đủ tỉ lệ
qui định như trong phát động cải cách ruộng đất. Khi âm thầm mà tàn khốc như cuộc
tạo dựng vụ án xét lại chống đảng. Khi ồn ào lu loa đánh hội đồng như vụ Nhân
Văn, Giai Phẩm. Khi đại trà lùa hàng trăm ngàn người Việt đối lập ý thức hệ cộng
sản vào vòng tù tội trong các trại cải tạo khắc nghiệt. Khi bất ngờ đưa lực lượng
đông đảo bạo lực nhà nước xông vào nhà dân bắt lẻ từng người, từng người một.
Một nhà nước say bạo lực, nghiện bạo lực như con bệnh nghiện ma túy. Một nhà nước có duyên nghiệp với bạo lực, là nghiệp chướng của bạo lực. Một nhà nước độc quyền lòng yêu nước, độc quyền cả chân lí, coi những tiếng nói thẳng thắn, chân thành, đúng đắn nhưng trái với lí tưởng của đảng cầm quyền đều là sai trái, là suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, là thế lực thù địch và luôn ứng xử với tiếng nói của lẽ phải, của lòng dân bằng bạo lực chuyên chính vô sản thì bạo lực nhà nước nay bắt người ngay thẳng này, mai bắt người chân thành kia đã là chuyện thường ngày suốt bảy chục năm qua và chín mươi triệu người dân lương thiện chỉ là những người tù, hoặc người tù chính thức đang trong các trại giam, hoặc người tù dự bị còn ở ngoài cổng trại giam mà thôi!
Riêng
việc gần đây công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam cấp tập bắt ba bloggers
và người viết báo mạng nổi tiếng được rất nhiều người tìm đọc là Hồng Lê Thọ,
Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Đình Ngọc tạo nên một không khí trấn áp, căng thẳng ,
bất an trong xã hội có cơn cớ từ sự khủng hoảng lí tưởng của đảng cộng sản cầm
quyền.
Lí
tưởng cộng sản của học thuyết Mác Lê nin đã được thực tế lịch sử chứng minh là
thảm họa của loài người, đã ầm ầm sụp đổ dây chuyền trên phạm vi thế giới như một
tất yếu. Lí tưởng cộng sản được thực hiện bằng đấu tranh giai cấp không còn đạo
lí, không còn tính người và đấu tranh giai cấp đã vạch trận tuyến chiến tranh một
mất một còn trong từng con người, từng gia đình, trong lòng cả dân tộc Việt
Nam, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc chiến tranh người Việt giết người Việt kéo
dài nhiều thế hệ. Cả chục triệu người Việt đã chết trong cuộc nội chiến ý thức
hệ vì lợi ích của nước khác.
Học thuyết Mác Lê nin đưa giai cấp vô sản hão huyền lên trên dân tộc thiết thực làm cho dân tộc Việt Nam tuy bé nhỏ nhưng “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu . . . Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương” (Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo) nay thực sự không còn độc lập, tự chủ, phải cam phận chư hầu tủi nhục. Phải cắn răng cắt đất biên ải của lịch sử hào hùng cho nước cộng sản đàn anh Trung Cộng tham tàn. Phải “giữ nguyên hiện trạng” mất đất, mất biển, mất đảo cho nước cộng sản đàn anh Trung Cộng tham tàn làm chủ quần đảo Hoàng Sa, làm chủ dải đảo Garma, làm chủ biển đông của Việt Nam.
Học
thuyết Mác Lê nin là nguyên nhân làm cho đất nước Việt Nam trì trệ, ngày càng tụt
lại sau, người dân nghèo đói, đạo lí suy đồi, xã hội bất an, mọi giá trị đảo lộn.
Ê chề, mất mát, đau khổ, tủi nhục do học thuyết Mác Lê nin tàn bạo, sắt máu
mang lại, dòng người Việt lũ lượt bỏ nước ra đi kéo dài suốt nửa thế kỉ đến nay
vẫn chưa chấm dứt. Tiếng than trời, lời chối bỏ của người dân với học thuyết
Mác Lê nin tràn ngập trên các trang mạng xã hội lề dân. 61 trí thức đảng viên cộng
sản trung thực đã thẳng thắn viết thư gửi lãnh đạo đảng cộng sản cầm quyền yêu
cầu từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin tai họa.
Đảng
cộng sản cầm quyền đang gấp rút làm công việc chuẩn bị cho đại hội đảng lần thứ
XII trong không khí và tình thế đó. Trong khi những người thực sự nắm quyền
trong đảng cộng sản đều muốn khư khư duy trì học thuyết Mác Lê nin để duy trì
quyền lực độc tài, duy trì vị thế thống trị xã hội của họ, bảo toàn khối tài sản
khổng lồ nhờ có học thuyết Mác Lê nin, nhờ có độc tài đảng trị họ mới có được. Vì
thế họ phải vận hành bộ máy công cụ bạo lực nhà nước bắt bớ chủ những trang mạng
và người viết báo mạng lề dân gây dư luận rộng rãi phản ứng bất lợi với học
thuyết Mác Lê nin và đảng cộng sản, để đảng cộng sản bước vào đại hội tiếp tục
kiên trì học thuyết Mác Lê nin.
2. Lịch sử viết bằng máu của cha ông dạy rằng: Trước
sức mạnh xâm lược thường trực suốt mấy ngàn năm của đế quốc phương Bắc khổng lồ,
dân tộc Việt Nam bé nhỏ chỉ có đoàn kết dân tộc mới giữ được bản sắc văn hóa
riêng, mới tạo ra sức mạnh để tồn tại và phát triển. Nhưng những người cộng sản
đã rước về mớ lí luận đấu tranh giai cấp xằng bậy của học thuyết Mác Lê nin,
ngón đòn độc địa, thâm hiểm của Mao Đại Hán, lấy giai cấp thống trị dân tộc, lấy
giai cấp đánh phá tan nát dân tộc, làm yếu hèn dân tộc Việt Nam để dân tộc Việt
Nam phải an phận núp bóng Đại Hán, an phận chịu nô dịch Bắc thuộc.
Từ
bỏ học thuyết Mác Lê nin bạo liệt sắt máu gây hận thù, li tán dân tộc, từ bỏ lí
tưởng xã hội chủ nghĩa huyễn hoặc, vô vọng “đến cuối thế kỉ này cũng chưa chắc
đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” như lời thú nhận của ông Tổng bí thư đảng cộng
sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, từ bỏ độc quyền chân lí, độc tài cai trị đất nước
bằng bạo lực chuyên chính vô sản là lẽ sống còn của dân tộc Việt Nam. Đó là đòi
hỏi nghiêm khắc của lịch sử hào hùng Việt Nam, là tiếng nói khẩn thiết của cả
dân tộc Việt Nam. Tiếng nói đó được Hồng Lê Thọ thể hiện bằng trang mạng “Người
Lót Gạch”, được nhà văn Nguyễn Quang Lập diễn đạt bằng giọng điệu “Quê Choa”,
được Nguyễn Đình Ngọc viết bằng văn phong Nguyễn Ngọc Già.
Bạo
lực nhà nước chuyên chính vô sản có thể bắt ba người ngay thẳng đó, có thể bắt
ba ngàn người, ba triệu người Việt Nam yêu nước, dũng cảm nói tiếng nói của cuộc
sống, của nhân dân nhưng không thể bắt cả dân tộc Việt Nam đòi quyền làm người,
đòi lại những giá trị làm nên sự bền vững và trường tồn của dân tộc Việt Nam. Bạo
lực cường quyền dù mạnh, dù hung hãn đến đâu cũng không thể khuất phục được
khát vọng chính đáng của nhân dân, không thể chống lại đòi hỏi khẩn thiết của lịch
sử, không thể đi ngược xu thế tất yếu của thời đại dân chủ hóa.
Với
bộ máy công cụ công an khổng lồ, cuồng tín, chỉ biết có đảng, với nền tư pháp
xã hội chủ nghĩa mà hệ thống luật pháp chỉ để bảo đảm sự độc tôn thống trị xã hội
của đảng cộng sản và tòa án xử theo bản án có sẵn trong hồ sơ do cấp ủy đảng ban
hành. Đó là không gian vô cùng rộng lớn cho bạo lực chuyên chính vô sản mặc sức
hoành hành.
Cha
Chính Vinh ở nhà thờ lớn Hà Nội chỉ vì ngăn cản nhóm người ngạo ngược, đường đột
xâm phạm không gian tôn giáo, tự tiện bắc thang leo lên hai tòa tháp nhà thờ lớn
treo cờ, giăng khẩu hiệu mà bị tù mút mùa ở địa ngục Cắn Tỷ, Cổng Trời, Hà Giang
từ năm 1958 cho đến chết vì đói khổ suy kiệt, năm 1971.
Nhà
thơ Hoàng Hưng chỉ vì cầm tập thơ chép tay Về Kinh Bắc do nhà thơ Hoàng Cầm tặng
mà bị bắt khẩn cấp giữa đường. Về Kinh Bắc viết về những hoài niệm thời ấu thơ
thấm đẫm chất folklore, văn hóa dân gian Kinh Bắc, thấm đẫm tình yêu quê hương:
“Ta con chim cu về gù dặng tre / Đưa nắng ấu thơ về trưa đất trắng / Đưa mây
lành những phương trời lạ / Về tụ nóc cây rơm”. Năm 1994 tập thơ mang hồn dân
gian đó được nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội xuất bản và phát hành rộng rãi nhưng
năm 1982, vì có trong tay tập thơ đó, nhà thơ Hoàng Hưng bị kết tội “lưu truyền
văn hóa phẩm phản động” và bị truy bức, đày đọa ba mươi chín tháng trong ngục
tù!
Ôi,
trong nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam, việc bắt dân, tống người dân lương
thiện vào ngục tù quá đơn giản, dễ dàng và mạng người dân quá rẻ mạt!
3. Suốt mấy chục năm cầm quyền, nhà nước cộng sản
Việt Nam đã bắt bớ, tù đày, giết hại hàng triệu người Việt Nam lương thiện. Sẽ
có những nhà nghiên cứu, những nhà làm sử chân chính tập hợp tư liệu, thống kê
đầy đủ để có con số chính xác số người dân lương thiện bị nhà nước chuyên chính
vô sản Việt Nam tù đày, giết hại. Con số dòng dòng máu đó sẽ đi vào lịch sử là
bằng chứng về một thời ngục tù đau đớn nhất của dân tộc Việt Nam và lịch sử sẽ
phán xét cái thể chế khẳng định sự có mặt, duy trì sự tồn tại bằng lạnh lùng, mê
mải, bền bỉ giam cầm thân xác, giam cầm trí tuệ, giam cầm tư tưởng người dân và
say máu dân lành.
Hồng
Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập, Nguyện Đình Ngọc đều là những trí thức, những nhà
văn, nhà báo có tư duy sắc sảo, có tâm hồn nhạy cảm. Những gì người viết đã nhận
từ cuộc đời không bao giờ mất đi vô tăm tích. Thân phận lầm than của đất nước,
thân phận bèo bọt của người dân những ngày bất an này đi vào những tâm hồn nhạy
cảm đó đã trở thành những bài viết lay động bao trái tim, thức tỉnh bao nhận thức.
Bây giờ chính những tâm hồn nhạy cảm, những trí thức chân chính giàu lòng tự trọng
đó phải mang thân phận người tù.
Trong
nhà nước độc tài cộng sản, nhà tù là nơi bộc lộ rõ nhất, đầy đủ nhất, khốc liệt
nhất, rùng rợn nhất bạo lực chuyên chính vô sản. Vì ngay khi còn sống đời thường
dân giữa xã hội, quyền con người của người dân đã không được nhìn nhận thì thân
phận người tù càng bị đối xử như con vật. Đó là một thực tế lớn với người viết,
làm sao có thể bỏ qua. Thực tế của Đêm Giữa Ban Ngày. Thực tế của Chuyện Kể Năm
2000. Thực tế của Quần Đảo Ngục Tù .
. . Thực tế nhức nhối đó không thể
câm lặng trong những trái tim nhạy cảm với nỗi đau, không thể mất đi phí hoài với
những người viết giàu nội lực. Viết vừa như đòi hỏi của cái riêng, vừa như
trách nhiệm với cái chung. Viết vì những người đã chết chưa kịp viết như Cha
Chính Vinh. Viết cho mai sau về một thời ngục tù đau đớn của giống nòi Việt
Nam.
Năm
tháng qua đi nhưng thời ngục tù đau đớn này sẽ còn mãi trong trang sách lịch sử,
còn mãi trong trang sách văn chương. Những người vì lợi ích riêng, vì mê muội,
cuồng tín đã góp chủ trương, góp sức, góp tay tạo ra thời ngục tù độc ác với
nhân dân, tội lỗi với lịch sử Việt Nam không thể trốn tránh được sự phán xét của
lịch sử, sự phán xét của mai sau.
công an canh ngõ |
LỜI CUỐI. Viết để ghi lại hiện thực một thời mình sống
tuy chả vui sướng, thích thú gì khi phải viết những điều cay đắng. Tôi đã kết
thúc bài viết này từ cả tuần nay nhưng vẫn để đấy và muốn quên nó đi. Nhưng có
sự việc vừa diễn ra làm cho tôi lại phải nhớ đến bài viết về sự cay đắng đó. Bốn
giờ chiều thứ bảy, 24.1.2015, nắng đã nhạt, tôi đi mua bịch phân bò khô về trồng
cây. Ra đến chốt bảo vệ ngoài cùng của khu căn hộ, giáp đường Lê Văn Lương, bỗng
một người trẻ mặc áo thun, quần lửng từ hè đường lao ra chặn xe tôi, vẫn giọng
xấc xược: Đi Đâu? Tôi nói việc cần đi. Người trẻ móc điện thoại từ túi quần ra gọi
cho ai đó, báo cáo việc tôi cần đi rồi anh ta lẳng lặng trở vào hè đường để cho
tôi đi. Nhưng có tới bốn người trên hai xe máy bám theo tôi suốt đường tôi đi
và về.
Hôm
sau chủ nhật, 25.1.2015, từ sáng sớm, tôi đã nhận ra cả hai ngả đường trước hai
khối căn hộ tôi ở có đến cả chục bóng an ninh chốt chặn. Lại tái diễn cảnh mới
ít ngày trước, suốt nửa tháng trời, ngày nào cũng có cả chục công cụ bạo lực
nhà nước cộng sản đến phong tỏa khu căn hộ tôi ở, không cho tôi ra khỏi nhà.
Cái
cảm giác ngột ngạt ngục tù từ những ngày đó lại trở về đè nặng trên ngực tôi.
Quảng Cáo
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire