Trang

01/05/2019

Hành trình tìm về những nấm mồ hoang


TRẦN TIẾN DŨNG



Lời người viết:
 
Năm 2006, tôi đi lên Yên Bái- Việt Cường để về tìm các nấm mồ của các sĩ quan VNCH bị tù cải tạo. Nay đăng lại loạt bài này để một lần nữa góp phần kính tưởng các hương linh bỏ mạng nơi ấy.
Một giai đoạn lịch sử đã qua, qua đi để ở lại mãi với ký ức, giúp thế hệ sau tỏ được các số phận bi thương oan khuất này, để họ nhìn ra toàn thể bất công oan khuất không thể kể hết của sự thật lịch sử sau biến cố 30-4-1975.


Lấy vé từ bến xe Mỹ Đình đi Yên Bái, ngồi chờ chiếc xe khách loại xe 24 chỗ ngồi “nghĩa địa Nhật Bản” rời bến, tâm trạng chúng tôi lúc đó mất phương hướng. Với những người từ miền Nam ra, vùng thượng du Bắc bộ đúng là sương giá mù mịt. Nhưng chúng tôi vẫn may mắn có những người bán hàng rong và những người nhà quê chân chất để làm bạn đường trò chuyện. Chỉ nội chuyện đó không thôi đã cực kỳ khác biệt nếu so với những người sĩ quan quân đội VNCH mà 31 năm trước được đưa từ miền xuôi lên mạn ngược này để học tập cải tạo. Người ta kể, lúc ấy họ được đưa đi thẳng vào bóng đêm hun hút và đầu xuân năm ấy tiết trời vẫn rất lạnh.

Cho đến tận hôm nay, một đặc điểm của các chiếc xe khách chạy các tuyến đường ở miền Bắc là không có ảnh thờ Phật hay Chúa bên cạnh tài xế.

Người phụ nữ ngồi cạnh tôi nói

— Tôi xuống Đoan Hùng Phú Thọ. Đi xe 19 chúng vất giữa đường, xe 21 này mới về đến nơi. Bác có tiền đi chơi sướng nhỉ!

Cảnh giác người lạ nên chúng tôi chỉ cho bà biết một phần của lý do chúng tôi phải lên ngược. Bà lại nói:

— Bốc mộ là duy tâm, tốn kém, nhưng không bốc các cụ về lại không yên tâm. Hồi đầu chiến tranh anh tôi đi, tôi bảo giấy tờ nhà ở Hà Nội cho cháu thuê nhờ phải rõ ràng. Anh không nghe, bảo đi chóng về ấy mà. Đến giờ bên họ nhà chồng bảo trả xác. Nhà không trả cho tôi, nghìn năm tôi không trả xác anh. Tôi ở với anh dù anh sống hay chết có khổ, tang thương mấy chẳng màng nhưng tôi còn thằng con phải giữ cho nó để hưởng cái chính sách.

Chiếc xe khách vẫn cứ quay đầu vòng vòng để đón khách trong địa phận Hà Nội. Xe mấy lượt chạy qua chạy lại cơ quan ban quản lý dự án PMU 18. Bực mình bà lại chỉ tay vào cái toà nhà to đùng ấy nói:

— Đấy không khéo chúng ấy ăn mất cả phần con tôi.

Người cán bộ trẻ vẫn đội mũ cối, ngồi ở băng ghế trước quay xuống hỏi:

— Thế bác nhà bà hy sinh ở Điện Biên Phủ à! May mà còn trông được cái bằng liệt sĩ, trông gì cái nhà ở Hà Nội mà bác gay gắt thế!

Khi biết chúng tôi tìm ra tận Yên Bái - Hoàng Liên Sơn để tìm mộ người thân sau 1975 đi tập trung cải tạo. Bà Đức (tên người đàn bà ngồi cạnh tôi) sửng sốt:

— Ối giời! Thế tôi cứ tưởng chỉ có người vượt đường vào trong ấy tìm mộ bộ đội. Sao các bác nhà anh lại không may thế nhỉ? Chiến tranh kinh thật!

Cảnh sống của người dân và bộ mặt các thị trấn ven quốc lộ 20 với các bảng hiệu, hàng hoá và các bảng quảng cáo tiếng Anh, đa dạng mà bừa bộn như hình ảnh các thị trấn miền Nam vào thời kỳ người Mỹ có mặt ở thập niên 60. Những bảng hiệu chữ to mời ăn đặc sản dê núi gà đồi là ấn tượng thượng du tây bắc “thời đại” nhất.

Đi qua khu di tích đền Hùng, Phú Thọ, bà Đức xuống xe vì có việc. Người phụ nữ mặc áo màu hoa cà, ngồi thế vào chỗ bà Đức. Một lúc sau, tôi đem chuyện đi tìm mộ sĩ quan “ngụy” đi học tập cải tạo, để hỏi thăm quanh vùng này chị có nghe có biết về chuyện ấy không. Chị nói chuyện với tôi thông qua cái khẩu trang bít kín nửa gương mặt:

— Nếu có, nhà nước phải báo, chứ đã đưa người ta ra tận đây kia mà!

Xe vào vùng núi Phú Hộ. Cô sinh viên sư phạm đi cùng tuyến với chúng tôi về huyện Trấn Yên - Yên Bái, loáng thoáng nghe chuyện, bỗng nhiên cô hỏi.

— Thế người chú tìm ra ngoài này đi buôn hàng Trung Quốc hay du lịch ạ?

Nhìn vẻ hồn nhiên của cô gái Bắc thế hệ 8x, trong tình cảnh chuyện trò để giết thời gian trên xe khách này, chúng tôi không biết phải giải thích sao cho đủ nghĩa về lịch sử của các bên liên quan trong cuộc chiến tranh dai dẳng và ác liệt nhất của lịch sử dân tộc và số phận nghiệt ngã của những người lính miền Nam sau chiến tranh.

Không riêng gì người trong nước mà cả ở hải ngoại, có rất nhiều người lúc này cho rằng cái quí giá nhất mà dân tộc đã có là hoà bình. Đã hơn ba mươi năm rồi không nên tiếp tục mở miệng vết thương chiến tranh. Nhưng trong trường hợp của chúng tôi, biết phải trả lời ra sao cho cô sinh viên này. Chúng tôi không thể đáp rằng: Không gì hết cháu ạ, người mà chú định tìm chỉ từ miền Nam ra đây để chịu đói khổ rồi chết mà thôi.

Mùa thu trung du không phải là một quan toà nhưng khí hậu khắc nghiệt, đồi núi và cây rừng chập chùng chắn ngang tầm mắt này luôn nhắc người ta rằng không hề có một ý thức hệ, một giá trị tư tưởng nào biết tổn thương, chỉ sự thật của số phận con người mới biết đau đớn. Từng số phận con người mới chính là lịch sử chân thật nhất, phần vô giá nhất của lương tri dân tộc.


“BA MƯƠI MỐT NĂM TRÊN ĐÔI SƯƠNG GIÁ”

Lúc tôi xuống thị xã Yên Bái, mặt trời đã khuất dù chỉ mới 3 giờ chiều. Và thật sự tôi không biết phải chọn bến nào để xuống trong cái thị xã nằm sát cạnh dòng sông Hồng mùa nước kiệt. Tôi có mặt ở đây chỉ với một thôi thúc nôn nao lạ kỳ là muốn đến ngay cái đồi Cây Khế thuộc xã Việt Cường. Trong sổ tay của tôi có cả số điện thoại của người đàn ông giữ gìn ngôi mộ của thiếu tá Nguyễn Văn Nô suốt 31 năm và chờ đến khi thân nhân của người sĩ quan bất hạnh ấy ra tận nơi đưa phần xương cốt và vài kỷ vật của một người tù cải tạo về nhà. Lúc ấy tôi không rõ lý do vì sao tôi không nói địa chỉ và nội dung câu chuyện “31 năm sau...” với người chạy xe ôm. Tôi chỉ nói với anh ta rằng tôi ra đây để tìm bà con họ hàng thất lạc và đồng ý cái giá một trăm ngàn để vào xã Việt Cường. Anh H chạy xe ôm nói:

— Bác yên tâm. Em là giáo viên tranh thủ vài cuốc xe. Không phải bọn láo nhận tiếng bác người trong ấy ra để chém đâu...

Qua cầu sắt Yên Bái bắc qua sông Hồng hướng về phía Nghĩa Lộ một đoạn, anh xe ôm rẽ trái. Với người gần như đã mất phương hướng như tôi, đường vào xã miền núi có lúc theo các chân các đồi chè mà lên trời có lúc lại theo các nấc ruộng bậc thang mà xuống địa ngục. Đường cứ dài mãi ra, dân cư thưa dần, khí lạnh của núi rừng làm tôi ớn sống lưng; tôi thấy hối hận vì đã trao sinh mạng cho người chạy xe ôm. Núi-rừng-người lúc ấy quả là chập chùng ác hiểm.

Có vẻ như con đường này sẽ không đưa tôi tới nơi muốn tới. Tôi muốn dừng lại để hỏi thăm đường. Anh xe ôm lại nói "chả cần, tôi biết nơi phải tới bác cứ yên tâm." Tôi đập vào lưng anh ta bảo dừng lại ngay! Chiếc xe Honda đang xuôi dốc bỗng xoay đầu. Anh xe ôm cười hì hì. "Đấy, hỏi thì hỏi cho bác yên tâm." Trước mặt chúng tôi có ngôi nhà nhỏ, có bảng hiệu gỗ viết bằng phấn học sinh: Sửa Xe Đạp và Xe Máy. Nhận mặt người sửa xe, anh xe ôm reo lên:

— Ối giời, bác Hùng! Đấy, đã bảo bác yên tâm mà. Xã này toàn người quen của tôi cả.

Chúng tôi biết anh xe ôm gặp được người quen cũng chỉ là ăn may, chứ thật ra anh xe ôm áo trong quần, giày tây bóng loáng, hoàn toàn mù tịt đường đi nước bước cái xã miền núi này. Anh Hùng mời chúng tôi vào nhà uống chè. Và quan trọng hơn hết là điều anh Hùng cho tôi biết địa danh đồi Cây Khế ở ngay sau lưng nhà anh, còn ông Đặng Công Huyên chính là hàng xóm của anh. Từ Nam ra với ngần ấy đường trời nẻo đất, với bao lo âu nhưng chỉ trong một thoáng, trong ngôi nhà vách ván đơn sơ mà tươm tất của anh Hùng, cái cảm giác bình an tưởng mất đã trở lại với tôi. Sau này tôi được biết tất cả những người thân của các sĩ quan VNCH ra đây tìm mộ đều được người dân địa phương đối xử tử tế. Ai cũng biết dù sao tìm xác lính Mỹ cũng có lợi, tìm mộ lính “cách mạng” thì hưởng danh, còn lo cho lính “Ngụy” cải tạo chết thì trọn nghĩa tử là nghĩa tận, trọn cái tánh người và chỉ cầu mỗi cái may là không bị chụp mũ.

Anh Hùng, tên đầy đủ là Lê Đức Hùng, đại úy bộ đội phục viên. Khác với những người cùng làng dân kinh tế Nam Định - Thái Bình ra lập nghiệp, anh là người có cội nguồn ở đất Việt Cường. Biết mục đích ra đây của tôi, anh nói:

— Ngày xưa tôi và các bác ấy ở hai bên chiến tuyến. Anh nghĩ có thể làm được gì khác ngoài chuyện bắn nhau nào. Bây giờ các bác ấy nằm lại đất này, làm gì được chúng tôi sẽ làm, thú thật không ngại gì hết.

Với nhiệt tình của người dân miền núi, anh vội vã đưa ngay chúng tôi đến nhà ông Đặng Công Huyên.

Theo hướng mặt trời lặn, nhà ông Huyên nằm ở phía phải sát cạnh chân đồi Cây Khế. Ông Huyên được người nhà gọi từ nương chè về, tay còn lấm đất.

Trong bài báo “31 năm người lính ấy trở về nhà”, kể từ lúc thiếu tá Nguyễn Văn Nô nằm xuống trên đồi Cây Khế, cho tới khi chỉ tìm thấy một phần xương cốt và vài món vật dụng của một kiếp người, suốt chiều dài thời gian ấy hình ảnh ông Đỗ Công Huyên luôn gắn bó thiết thân với linh hồn của thiếu tá Nô. Gắn bó như một người bạn chân tình! Thiếu tá Nô ngộ độc chết vì uống nước sắn luộc, điều này nhiều người bạn tù của thiếu tá biết. Họ cũng biết và luôn luôn nhớ sâu bền về nhiều trường họp chết khác của các bạn tù. Nhưng từ ngày ấy, người ở lại kề cận với 51 ngôi mộ hoang, ở lại bầu bạn với 51 linh hồn trên đồi Cây Khế quanh năm sương giá này chỉ mỗi ông Đỗ Công Huyên.

Ông Huyên có một danh sách người chết bằng giấy học trò, do tự bàn tay thô kệch thợ rừng của ông nắn nót ghi chép tên, tuổi, nguyên quán, ngày sinh, ngày chết của từng người sĩ quan VNCH học tập cải tạo đã chết trong khoảng từ năm 1975 đến 1978 ở trại cải tạo Việt Cường tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ.

Ông Huyên đưa chúng tôi lên đồi Cây Khế. Ông từng đi bộ đội ở Lào, sau 1975 về đây làm người giữ rừng và bầu bạn với các ngôi mộ hoang. Suốt đoạn đường leo đồi ông Huyên không nói gì. Trong ánh sáng nhợt nhạt của chiều lạnh trên đồi, gương mặt nhân hậu đến mức thâm trầm của ông Huyên lúc ẩn lúc hiện giữa cây cỏ và gió rừng. Lúc đó tôi có cảm giác với riêng ông, trong không gian và thời gian trên ngọn ngọn đồi giá lạnh này không tồn tại biên giới giữa người sống và người đã khuất. Ông Huyên cúi thấp người vạch đám cỏ dại để lộ ra một tấm bia bằng xi-măng đen xỉn, bia chỉ to bằng hai bàn tay. Đột nhiên ông nói

— Đây là mộ gởi lại. Bác này là Nguyễn Quang Tôn, sinh năm 1930 ở Hữu Quang, Sơn Tây, nhà ở phường cư xá, quận 3 Sài Gòn. Anh trai bác ấy là sĩ quan bộ đội cấp tá đấy. Ông ấy có cùng người nhà ra tận đây, tìm thấy mộ người em rồi nói. Thôi thì tìm thấy chú rồi, chú yên tâm mà ở lại đây bao giờ có điều kiện tôi lại ra đưa chú về. Thế là họ về, gởi mộ bác Tôn lại cho tôi mãi không thấy họ ra.

Trước mắt chúng tôi là cả đồi Cây Khế, trước đây là nơi yên nghĩ của hơn 51 sĩ quan cấp tá và tướng của quân đội VNCH; đến nay cả ngọn đồi này chỉ còn lại 12 ngôi mộ còn bia và 5 ngôi mộ mất bia. Và chỉ duy nhất ngôi mộ Nguyễn Quang Tôn phải ở lại dù đã gặp thân nhân

Hơn ba mươi năm hòa bình, đa phần các người lính chết mất tích của quân đội cách mạng và của quân đội đồng minh mà đứng đầu là Hoa Kỳ đều đã được trở về nhà. Vì sao cùng một hoàn cảnh mà chỉ những người lính VNCH trong chiến tranh và sau chiến tranh là phải gánh chịu hết sự oan trái nằm lại với bờ bụi vô danh.

Đứng trước ngôi mộ “gởi lại,” chúng tôi định kể cho bác Huyên, anh xe ôm và ba đứa trẻ chăn trâu nghe chuyện: Sau cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ, ngay giữa nghĩa trang thủ đô Hoa Kỳ của phe miền Bắc thắng trận vẫn có một khu mộ và tượng đài tưởng niệm những người lính miền Nam.

Bác Huyên tiếp tục đưa tôi đi và tự tay vạch tìm từng tấm bia mộ nằm khuất trong đám cỏ dại đẫm sương chiều. Bác hỏi

— Thế anh ra đây không quen có thấy lạnh không? Trước đây rừng còn độc hơn giờ nhiều. Mà lúc ấy đa số các ông sĩ quan miền Nam này ra đến đây đều có tuổi cao cả đấy.

Thời gian bác Huyên bầu bạn với những linh hồn lính miền Nam đã dài hơn cả cuộc chiến tranh mười ngàn ngày trước đây. Chiến tranh tuy đã kết thúc nhưng sao cuối cùng chỉ mỗi nắm xương tàn và linh hồn không tan của những người này phải tiếp tục trả giá, phải tiếp tục chịu mọi hậu quả của cuộc chiến tàn khốc đó.

Gió lại lạnh hơn, nhưng không gì có thể nghe thấu cái lạnh vùng thượng du đất Bắc bằng chính những tấm mộ bia đang nghiêng đổ trên đồi Cây Khế. Những tấm mộ bia nhỏ bé, sơ sài mang trên đó là những cái tên, ngày sinh, ngày chết, mang trên đó là cả khát khao mong ngóng gặp người thân đến mức tuyệt vọng. Đó phải chăng là sự bấu víu cuối cùng trước khi chết một lần nữa, trước khi lạc mất vào vô danh.
---
 
 STTD đăng ngày 29-4-2019

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire