Trang

03/05/2019

"Những gì tôi nhìn thấy khi Mỹ thua cuộc"


Tác gi: David Hume Kennerly, nhiếp nh gia ca Tng thng M Gerald Ford
Ngô Bc (biên dch)

David Hume Kennerly

David Hume Kennerly là mt nhiếp nh gia, mt nhà báo M, tng giành gii Pulitzer năm 1972 cho nhng bc nh chp v chiến tranh Vit Nam, Campuchia, v người t nn Đông Pakistan… Là nhiếp nh gia riêng ca Tng thng M Gerald Ford, Kennerly đã có cơ hi chng kiến và ghi li nhng khonh khc lch s trong chui ngày cui cùng ca M Vit Nam.

Tâm trng chán nn, tht vng, lo âu là đim chung không th giu diếm hin rõ trên nét mt nhng nhân vt quyn lc ca chính quyn M thi by gi, đã được ghi li qua nhng bc nh tư liu quý giá vào đúng lúc kết thúc cuc chiến tranh dai dng, đm máu Vit Nam.


Li t s ca nhiếp nh gia David Hume Kennerly:


“Tôi đã có mt ch ngi hàng đu cho hi kết cuc ca cuc chiến tranh Vit Nam – mt cuc chiến mà tôi đã tri qua hơn hai năm trong đi mình đ tường thut ti ch cuc giao tranh.

Câu chuyn Vit Nam ca tôi bt đu hi đu năm 1971, khi hãng thông tn United Press International ch đnh tôi sang văn phòng ti Sài Gòn đ thay thế nhiếp nh gia Kent Potter, người sp được luân chuyn. Anh ta không h có được cơ may đó. Vào tháng 2-1971, Potter và ba nhiếp nh gia khác đã gp nn khi máy bay trc thăng ca h b bn rơi ti Lào trong cuc hành quân Lam Sơn 719. Larry Burrows ca t Life, Henri Huet ca hãng AP, và Keisaburo Shimamoto ca t Newsweek nm trong s nhng người t nn. Tôi không quen biết bt kỳ ai trong s các nhiếp nh gia hàng đu đó, nhưng Burrows tng là mt anh hùng, và các bc nh ca ông đã truyn cm hng khiến tôi ước mun được tường thut v cuc chiến.  Mt ít tun sau đó, tôi đã trên mt phi cơ bay đến Sài Gòn.

Tôi đã tri qua hơn hai năm đ chp nh cuc giao chiến ti Đông Dương, và vào năm 1972, tôi đã được trao gii thưởng Pulitzer cho công vic ca mình ti Vit Nam, Campuchia và n Đ, nơi tôi đã chp nh dân t nn chy trn qua biên gii t Đông Pakistan.

Vit Nam đã tr thành mt phn trong ADN ca tôi; mi điu xy ra cho tôi k t khi đó đã được đnh hình. Tôi tui 24, và năm đu tiên vi tư cách mt nhiếp nh gia mt trn, có quá nhiu ln suýt chết, tôi thc s không h nghĩ rng mình còn sng được ti tui 25. Khi k nim kỳ sinh nht đó ti Sài Gòn, tôi cm thy mi năm sau đó là mt bng lc tri cho.  Cho đến nay, phn lc tri đó đã được cng thêm ti 43 năm! Tôi đã c gng tn dng các năm tháng đó cho tht xng đáng.

Tôi đã quay tr li nước M hi gia 1973 đ làm vic cho t tp chí TIME. Mt trong nhng nhim v ngay t đu ca tôi là v xì-căng-đan Watergate, và tôi cũng được ch đnh chp nh v lãnh đo khi thiu s ti H Vin Gerald R. Ford sau khi Phó Tng Thng SpiroAgnew t chc vào mùa thu năm đó.  Mt bc nh mà tôi đã chp ông Ford được in trên trang bìa ca t TIME khi Tng Thng Nixon loan báo rng ông Ford s thay thế Agnew làm tân Phó Tng thng. T TIME sau đó c tôi ph trách đưa tin toàn thi gian v ông Ford. Khi Tng Thng Nixon t chc, và ông Ford lên thay thế, ông đã yêu cu tôi tr thành nhiếp nh gia chính ca ông. Đi cùng vi công vic đó là s tiếp cn hoàn toàn, không ch vi Tng thng và gia đình, mà còn vi mi s vic din ra trong hu trường. S kin này qu là mt nim vinh d, to s phn khích cung nhit và là mt trong nhng s tưởng thưởng ln nht v mt cá nhân và ngh nghip trong cuc đi tôi.

Vào ngày 3-3-1975, sáu tháng sau khi khi đu nhim kỳ Tng thng ca ông Ford, Nam Vit Nam đã bt đu tan rã khi Quân Đi min Bc tn công vào thành ph cao nguyên min trung Buôn Mê Thut.  Sau vài ngày giao tranh d di gây ra hàng nghìn tn tht nhân mng, thành ph then cht đó rơi vào tay quân đi min Bc Vit Nam. Đây là bước khi đu cho s kết liu ca chính quyn Nam Vit Nam.

Cuc sng trước đây ca tôi như mt k chp nh chiến tranh đi nghch vi công vic mi nht ca tôi vi tư cách nhiếp nh gia ca Tng thng. Tôi ln sâu vào bên trong Nhà Trng vi tư cách nhiếp nh gia ca Tng thng, và được trao cho mt cơ hi đc đáo vô song đ nhìn thy mt cuc chiến tranh n tung t các snh đường ca quyn lc. S tiếp cn đc bit này cũng đã dn đến mt cuc du hành bí mt đến Vit Nam vi mt s mnh đc bit cho Tng thng Ford – và sau đó tr li Nhà Trng chng kiến hi kết cuc ca v kch Vit Nam.

Nhng ngày cui cùng ca tháng 4-1975 là nhng ngày khn kh cá nhân khi màn cui cùng ca bi kch Vit Nam m ra. Tôi đã không ng, và đã tn lc đ bo đm rng tôi đã chp nh mi khonh khc mà tôi có th chp được ca chui ngày chung cuc căng thng này. Cùng lúc vi vic có được điu kin đc đáo khi ghi nhn các biến c được khai m ra, tôi cùng b vt cn v mt xúc cm bi các tình hung. Trong sut bn thân cuc chiến, tôi đã lướt qua s đau đn ca mình đ thu thp chng liu ca câu chuyn, và tôi đã làm y như thế trong sut nhng ngày cui cùng đó.  Tôi cũng hiu biết rng ch mt nhóm nh nhng người vi quyn hành khng l đã đưa ra các quyết đnh đình hình đi sng ca chúng ta. H là nhng người đã khi s và kết thúc các cuc chiến tranh. Tng là mt người ch luôn đng bên ngoài, tht sng s khi nhìn thy tiến trình đó chuyn đng ra sao.

Mi ch vài năm trước đây, tôi đã tn lc vi mt đng lc mun thu thp chng liu các biến c t đu mút phía bên kia – và s hàng đu khi hành đng din ra. Hay tôi đã nghĩ như thế. Không lâu sau đó, tôi nhn thy mình đang tâm đim ca mt hot đng kiu khác – quan sát và ghi nhn s đau đn ca nhng quyết đnh v vic sng, chết và tương lai ca các dân tc ln lượt được mt v Tng thng đưa ra cho đến khi không còn quyết đnh nào na đ đưa ra.  Và khi đó, cuc chiến tranh Vit Nam đã trôi qua.

Đây là s tường thut và các hình nh ca tôi v nhng ngày cui cùng ca M Vit Nam và s sp đ ca Sài Gòn. Li trích dn trc tiếp t nhng người tham d được rút ra t các biên bn được gii mt các phiên hp ca Hi đng An ninh Quc Gia, Bn ghi nh các cuc đàm thoi, các phiên hp ca Ni Các Chính Ph, các bui hp báo ca Tòa Bch c, quyn sách ca Tng Thng Ford, nhan đ A Time To Heal, quyn sách ca Donald Rumfeld, Known and Unknown, và quyn t thut ca chính tôi, Shooter.”

Ngày 16-3-1975: Quân đội miền Bắc Việt Nam đang ở Huế, và di chuyển xuống Đà Nẵng. Nguy cơ tất cả các tỉnh phía bắc của Nam Việt Nam sẽ lọt vào tay các lực lượng cộng sản đang tiến tới. Vào ngày 25-3, Tổng thống Ford họp trong Phòng Bầu Dục với Tham mưu trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, Đại Tướng Frederick Weyand và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Graham Martin. Tổng thống thảo luận việc phái Đại tướng sang Sài Gòn thực hiện sứ mệnh tìm hiểu sự việc để xem xét bất kỳ điều gì có thể làm được hầu ngăn chặn làn sóng tiến quân của Bắc Việt. Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger, và trợ lý của ông, Tướng Brent Scowcroft, cũng tham dự phiên họp. Bức ảnh tôi chụp Tướng Scowcroft tại văn phòng trong Nhà Trắng khi ông nói chuyện qua điện thoại với một đồng sự phản ảnh mức độ trầm trọng của tình hình.

Ngày 25-3-1975: Tổng Thống Ford nói với Tướng Weyand, “Ông Fred, ông sẽ đi cùng với ông Đại sứ. Đây là một trong những công tác có tầm quan trọng nhất mà ông từng được giao phó. Ông không đi đến đó để thất trận – mà để cứng rắn và xem xét những gì chúng ta có thể làm được". Tổng Thống nói tiếp, “Chúng tôi muốn có các khuyến cáo của ông về những điều có thể mạnh bạo và gây chấn động cho miền Bắc. Tôi tiếc rằng tôi không có thẩm quyền để làm một số việc mà Tổng thống Nixon có thể làm”. Ông Kissinger có hỏi, “Đâu là tình hình thực sự và tại sao? Những gì có thể được làm?” Tướng Weyand trả lời, “Chúng tôi sẽ mang về một đánh giá tổng quát và mang lại cho họ (Nam Việt Nam, chú thích của người dịch) một mũi tiêm hồi sức".
Ngày 25-3-1975: Sau khi họ rời khỏi phòng họp, tôi đã chụp bức ảnh một mình Tổng thống trong văn phòng, thể hiện rõ sự thất vọng. Chúng tôi đã nói về chuyến đi, và tôi đã nói với ông rằng, bởi kinh nghiệm sâu rộng của tôi tại Việt Nam, tôi muốn đi cùng với Đại tướng Weyand. Tổng thống đồng ý và nói rằng ông sẽ trông chờ tôi mang về cho ông một quan điểm thẳng thắn và vô tư như thường lệ khi tôi trở về. Văn phòng của tôi ở tầng hầm dưới đất của Tòa Bạch Ốc, và tôi đã ghé ngang để nói với nhân viên của tôi rằng tôi sẽ sớm ra đi cho một chuyến du hành vào ngày hôm sau. Tôi đã treo một tấm bảng trên cửa ra vào, ghi rằng: “Đi Việt Nam. Sẽ quay về trong vòng hai tuần lễ".  Các nhân viên nghĩ tôi đùa giỡn cho tới khi tôi không có mặt tại văn phòng ngày sau đó, hay trong gần hai tuần lễ. Vào lúc muộn hơn buổi tối hôm đó, tôi đến chào tạm biệt ông bà Ford và hỏi mượn Tổng thống một khoản tiền. Đây là những ngày chưa có máy rút tiền tự động ATM. “Các ngân hàng đã đóng cửa, và tôi sẽ ra đi trước khi chúng mở cửa” tôi nói.  Ông Ford rút tất cả những tờ giấy bạc mà ông có trong ví. “Đây này, 47 đô la, ông nói, “Đừng tiêu hết một lúc nhé!”. Sau đó ông trở nên nghiêm trọng, đặt cánh tay lên vai tôi, và nói, “Nhớ cẩn thận".
Ngày 26-3-1975: Máy bay của Đại tướng Weyand, một chiếc C-141 của Không Lực, dừng lại để đổ thêm nhiên liệu tại Anchorage [bang Alaska. nd] và Tokyo trước khi đến Sài Gòn 24 giờ sau đó. Trên máy bay, tôi làm quen với Ken Quinn, một nhân viên trẻ của Hội đồng An ninh quốc gia chuyên về Đông Nam Á. Tôi đã dùng thời giờ trong chuyến đi, và đã có dư thời giờ, nói chuyện với George Carver and Ted Shackley, hai viên chức cao cấp của Cơ quan CIA. Họ là những người làm việc núp sâu trong bóng tối và là các tham dự viên quan trọng trong thiên hùng ca Việt Nam. Sau khi tới Việt Nam, Ken và tôi được chỉ định làm bạn cùng phòng tại khu nhà của Đại sứ Martin ở Sài Gòn. Vào lúc đó, cuộc di tản chính thức của người Việt Nam chưa diễn ra. Tuy nhiên, Ken và các đồng sự của anh ta đã biết rằng sắp có sự kết thúc. Tôi khám phá ra rằng Ken và một số nhân viên đồng sự tại Hội đồng An ninh quốc gia đang điều hành một mạng lưới hữu hiệu, rộng lớn và rất không chính thức để âm thầm giúp cho hàng nghìn người Việt đồng minh thoát ra ngoài đất nước và đến nơi an toàn. Các cơ quan thông tấn Mỹ cũng lo lắng nhiều về sự an toàn của các nhân viên Việt Nam và thân nhân của họ. Tôi đã thu xếp một cuộc gặp mặt không chính thức với Đại sứ và Art Lord, đại diện cho giới truyền thông, dẫn tới một tiến trình không chính thức để bắt đầu đưa một số trong những người đó ra khỏi xứ sở. Ông Đại sứ nghĩ rằng một số người của các cơ quan thông tấn này giả dối bởi trong khi họ yêu cầu sự trợ giúp để đưa người của họ đến nơi an toàn, họ lại đang tường thuật rằng sẽ không có sự trả thù đối với người dân Nam Việt Nam nếu Miền Bắc nắm chính quyền.
Ngày 29-3-1975: Tôi không phải là thành phần của các buổi thuyết trình chính thức của Đại tướng Weyand, nhưng cùng lúc tôi đã có một chỉ thị rất cá nhân từ Tổng thống Ford, muốn tôi cung cấp cho ông quan điểm trực tiếp của chính tôi về tình hình. Tôi quyết định đi lên hướng Bắc. Đà Nẵng đã nằm ngoài tầm tay, bởi trong thực tế đã nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Bắc Việt, vì thế tôi tìm cách ra Nha Trang, một thành phố nhỏ cách Đà Nẵng 300 dặm về phía Nam, đã sẵn bị tràn ngập bởi dân tỵ nạn. Khi đến nơi, tôi nhận thấy Montcrieff Spear, Tổng Lãnh sự Mỹ tại Nha Trang, đang chuẩn bị rời đi. Vợ ông ta thực ra đang đóng gói hành lý khi tôi đến thăm. Tuy nhiên, trước khi có thể rời đi, ông cần đi tìm người đồng nghiệp là Tổng Lãnh sự Al Francis, người đã chạy khỏi Đã Nẵng.
Ngày 30-3-1975: Spear và tôi đã lấy một máy bay trực thăng của Không quân Mỹ ra Vịnh Cam Ranh để đi tìm Francis, người đã tìm cách thoát ra khỏi Đà Nẵng trên một chiếc tàu bị bắt cóc bởi các binh lính Nam Việt Nam trốn chạy. Tôi đã nhìn thấy một chiếc tàu lớn chen chúc bởi hàng nghìn binh sĩ, và ít nhất một kẻ trong họ, trong nỗi thất vọng về tình hình, tôi đoán, đã khai hỏa vào chiếc trực thăng sơn cờ Hoa Kỳ. Họ bắn hụt nhưng khiến cho viên phi công phải đánh một vòng quay ngược lại thật kinh hoàng. Biến cố đã tạo ra một tin tức dội ngược về Hoa Kỳ, và bố mẹ tôi – không hay biết rằng tôi đang có một sứ mệnh bí mật tại Việt Nam – đã điện thoại đến Tòa Bạch Ốc. Họ ngạc nhiên khi được nối dây nói chuyện với chính Tổng thống Ford – các nhân viên tổng đài điện thoại tại Nhà Trắng biết quá rõ về tôi!! Tổng thống vừa được thuyết trình về biến cố, và ông nói với bố mẹ tôi rằng tôi an toàn, song quá mạo hiểm.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire