14/06/2018

Thư của một trí thức hải ngoại: Trả lại thẻ đảng để nhận lại nhân phẩm Việt !


 Lê Hữu Khóa(*) 

Thư gởi các đảng viên của ĐCSVN


Chào các bạn,

Tôi đã biết, đã quen những đảng viên của ĐCSVN và tôi đã đối thoại, đã tâm sự với họ về hiện trạng của dân tộc và tương lai của đất nước từ hơn 40 năm nay, và trong số đó, tôi nhận ra được là những người yêu nước muốn mang lại những điều hay, đẹp, tốt, lành tới đồng bào, cho Việt tộc. Nhưng trong cuộc đối thoại này, tôi xin phép được nêu ra một khoảng cách, tức là sự cách biệt giữa những đảng viên yêu nước, thương dân này với các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, đã mang nhục hiệu: hèn với giặc, ác với dân. Vì chính trong nội bộ lãnh đạo, có những kẻ đã phản bội lý tưởng yêu nước, thương dân, chúng tham quyền để tham nhũng, trong bọn này có kẻ mang dã tâm bán nước, nhấn đạp tiền đồ tổ tiên của Việt tộc xuống thấp để đưa tư lợi lên ngập mặt, ngập mắt của chúng, dùng tà quyền để vùi lấp nhân quyền, dùng bạo quyền đàn áp dân chủ. 



Đối thoại này vì công ích xã hội, vì tương lai đất nước, vì nhân phẩm của Việt tộc, thì không có chỗ cho những kẻ vào đảng để thăng quan tiến chức, để mua chức bán quyền, để vinh thân phì da qua đặc quyền, đặc lợi…để lợi dụng một đảng chỉ với bốn triệu đảng viên mà lại tự định vị cho mình kiểu «ghế trên ngồi tót sỗ sàng», lãnh đạo không để mưu tìm hạnh phúc cho nhân dân, mà cai trị họ, bòn rút họ, trấn áp họ, và tráo trở với họ trong mọi quan hệ xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, qua tuyên truyền ngu dân, qua bạo quyền của công an trị. Là tư vấn cho các định chế, các cơ chế của các chính quyền Âu châu tự nhiều năm qua, tôi được tiếp cận từ lãnh đạo tới đảng viên các đảng phái trong sinh hoạt chính trị đa đảng, trong quan hệ đa nguyên, có nhân quyền của cộng hòa, có tự do của dân chủ, tôi nhận ra độc đảng sinh ra độc tài của ĐCSVN là một hoạn bịnh thể chế, sinh ra ung thư trong sinh hoạt xã hội, cả trong đời sống tâm linh của Việt tộc. Đối thoại, vì vậy phải dựa trên dữ kiện, để nắm được chứng từ, có lý luận của sự thật để có lập luận về chân lý, để có giải luận về lẽ phải. Đối thoại chân chính không được rời quá trình sự thật-chân lý-lẽ phải:


       Lý tưởng chính trị phải là câu chuyện đầu tiên trong cuộc đối thoại này, trong đấu tranh cho độc lập dân tộc nó là đấu soi đường cho đảng, trong tình hình hiện nay thì nó hoàn toàn vắng mặt từ hành vi tới tư cách của các kẻ lãnh đạo ĐCSVN. Không những không có lý tưởng chính trị, họ còn làm ngược lại với các nội dụng qua hành tác của vị kỷ vì tự lợi, bám quyền để vơ vét qua tham nhũng, ôm quyền để ngấu nghiến qua tham ô, không có lý tưởng chính trị thì đừng làm chính trị! Vì nếu làm thì sẽ thành loại người mà dân ta đặt cho một điếm vị: «cướp ngày là quan», chúng là loại ký sinh trùng do độc đảng sinh ra: «sâu dân mọt nước». Lý tưởng chính trị làm nên niềm tin chính trị, nếu quốc thái dân an theo hướng đi lên của dân tộc, phải giới hạn mọi hậu nạn, tăng trưởng mọi sản xuất, làm giầu thực sự cho mọi tầng lớp có mặt trong xã hội, tự đây lý tưởng chính trị đã làm nên sức mạnh chính trị. Quá trình lý tưởng-niềm tin-sức mạnh, không chỉ là quyết tâm chính trị, mà nó chính là thông minh chính trị, quá trình này chính là xung lực để nâng lên trình độ chính trị của dân chúng, cường độ nhận thức chính trị của nhân dân. ĐCSVN hiện nay không còn có cái vốn lý tưởng-niềm tin-sức mạnh này, vì các lãnh đạo của nó đã phản bội nội dung của lý tưởng, nội hàm của niềm tin, nội lực của sức mạnh dân tộc. Lý tưởng chính trị có thực chất trong năng lực của lãnh đạo chính trị mang luôn tiềm lực thay đổi nhân sinh quan của một dân tộc, lấy nhân tính để giáo dục nhân tình; làm biến đổi thế giới quan của một giống nòi, lấy nhân tri để hiểu nhân loại; làm chuyển đổi vũ trụ quan của quần chúng, đưa nhân đạo vào nhân thế. Một đảng cầm quyền chân chính phải làm cho phương trình nhân sinh quan-thế giới quan-vũ trụ quan này được thăng hoa, vì đó chính là kết quả của tiến bộ, của văn minh, cũng là sự thành công cụ thể của lãnh đạo chính trị. Các lãnh tụ của ĐCSVN từ khi thành lập 1930, nhất là sau 1975 ngày thống nhất đất nước cho tới nay, không hề có bản lĩnh chính trị, có nội công tri thức, có tầm vóc nhân lý để làm chuyện này. Lý tưởng chính trị biến cái tầm thường lập đi lập lại không có tiến bộ, đổi cái bình thường vô thưởng, vô phạt, thay cái tầm phào của sống lây lất, đưa tất cả vào quy trình hiện đại hóa có văn minh, cùng lúc giữ được các truyền thống tốt lành, các di sản hay đẹp, đây chính là quá trình khai thị-khai minh-khai trí có trong bổn phận và trách nhiệm của lãnh đạo chính trị, nếu lãnh đạo liêm chính-liêm minh-liêm khiết. Hiện nay, từ Bộ chính trị tới tổng bí thư, từ Trung ương đảng tới chính phủ không có một ai có bản lĩnh đạo lý, có nội công luân lý, có tầm vóc đạo đức để chứng tỏ quá trình này. Đây đúng là lúc phải trả thẻ đảng, vì đảng bất tài. 


       Chỉnh lý lãnh đạo, là câu chuyện thứ hai, ở đây có chỉnh lý lãnh đạo được xây dựng cạnh kề với thực trạng của dân tộc, có đủ cơm ăn áo mặc, không phải như hiện nay công nhân Việt phải đi làm lao nô ngay trên đất nước mình cho các doanh nghiệp ngoại quốc, chịu cảnh nô tỳ cho các nước láng giềng, bị đe dọa bởi thảm cảnh nô lệ qua thực tế của một đất nước đang bị Tàu tặc đe dọa với Tàu nạn về môi trường và thực phẩm, Tàu họa về lãnh thổ, biển đảo, và Tàu hoại về kinh tế, thương mại, nông nghiệp… (tôi quý trọng văn hóa và nhân dân Trung Quốc, nhưng tôi xin phép được gọi bọn lãnh đạo bành trướng và bá quyền của Bắc Kinh qua phương trình khống chế của chúng là Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại). Chỉnh lý lãnh đạo đòi hỏi các lãnh đạo ĐCSVN phải làm được tức khắc qua quyết tâm chính trị biết dựa vào lý tưởng chính trị, mà không cần gọi tên qua xảo ngữ để lừa dân là lý tưởng cách mạng! Chỉnh lý lãnh đạo còn là đưa nhân tri sáng, nhân trí cao vào nhân tình nghèo, vào nhân thế thấp, làm cho bằng được cuộc cách mạng nhân phẩm: quyết chí làm chủ và từ chối làm tớ, để thành công như các nước láng giềng cùng nôi văn minh trong tam giáo đồng nguyên với ta: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Lấy sáng kiến trong giáo dục làm ra sáng tạo trong khoa học kỹ thuật; chọn kiếp cao, bỏ kiếp thấp, cụ thể lấy tự chủ để có tự lập lập ra tự cường, tức là chọn tự trọng trước tổ tiên và con cháu, quyết không chọn điếm nhục với láng giềng, với thế giới! Tại sao lại biến Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thành đặc khu với bao hệ lụy của trác tán, đồi trụy qua buôn lậu, rửa tiền… khi Tàu tặc tới ăn ở, sinh sôi, chúng sẽ làm điếm nhục hóa đất Việt. Mà không biến các đặc khu này thành các trung tâm khoa học kỷ thuật sắc nhọn, nơi mà các nguyên khí quốc gia từ chuyên gia tới trí thức tới sinh sống và làm việc trong hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo), đất dụng võ của thông minh Việt, qua kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đã làm? Phải chăng vì các lãnh đạo ĐCSVN hiện nay không có ý niệm gì về sáng tạo khoa học kỷ thuật theo kinh nghiệm của Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapour, Trung Quốc…? Hoặc giả họ không biết gì nên không tin về hệ năng (tài năng, trí năng, hiệu năng) của Việt tộc, vì chính bản thân họ chưa bao giờ được đào tạo bài bản, chưa bao giờ được học hành tử tế, chưa bao giờ có học lực thật để có học vị thật, học hàm thật, ngược lại chế độ độc đảng hiện nay đã tạo ra con quái thai giáo dục là học giả-thi giả-bằng giả?


       Chính quyền liêm chính phải bảo đảm các định chế xã hội, được ghi trong hiến pháp, bảo hành luôn tất cả cơ chế trong xã hội, tự hành chính tới giáo dục, bảo trì từ ngân sách tới xuất khẩu, từ văn hóa tới luân lý. . . Chính quyền bảo đảm, bảo trì, bảo hành dường như tất cả mọi sinh hoạt xã hội: thì cũng chính là chính quyền làm sản sinh ra các vấn đề xã hội mới. Và, nếu không giải quyết các vấn đề xã hội mới, thì chính chúng sẽ sinh đẻ ra các khó khăn xã hội mới, nếu khó khăn xã hội mới này không được giải quyết nhanh chóng, chính chúng sẽ tạo ra các tệ nạn xã hội mới, và nếu các tệ nạn xã hội này không được xử lý toàn bộ, chính chúng sẽ sinh bừa không những các bất công xã hội mới, kể cả các bạo động xã hội mới. Chính quyền Việt Nam hiện nay, mang thực chất của cường quyền, để lại từ khi có chuyên chính-chuyên quyền-lạm quyền, tức là từ khi có độc quyền của ĐCSVN, loại chính quyền này tự cho phép họ gian lận “nói một đằng, làm một nẻo”, cùng với phản xạ “cả vú lấp miệng em”. Nó hoàn toàn trái ngược lại với định nghĩa bình thường của chính quyền, mà theo tổ của ngành xã hội học Durkheim: “chính quyền đưa thực thể của tư duy vào hành động cụ thể trong thực tế xã hội, qua công cụ hợp lý của chính sách, để điều hành các định chế, các cơ chế vì lợi ích của toàn thể”. Tội của ĐCSVN hiện nay ngày càng nhiều, càng sâu, khi họ để phụ nữ Việt phải đi làm nô tỳ, nô bộc, thậm chí “làm gái” trong nhiều nước láng giềng, mà số phận thua kẻ “đi ở đợ”. Trong khi mọi người Việt đều biết không ai thấy những phụ nữ các nước láng giềng trên đất nước Việt, một chế độ mà để bao nhiêu trăm ngàn phụ nữ đi “làm vợ lẽ”, “làm điếm”. . . Trên mạng xã hội, cư dân mạng đều thấy bức ảnh một phụ nữ, ăn mặc hở hang, nhưng cầm trên tay biểu ngữ “bán thân không bán nước!” Đây không những là sự thật về chính quyền hiện nay trong đó có một số không nhỏ lãnh đạo ĐCSVN đang trong quy trình bán nước, mà biểu ngữ này còn nói lên một sự thật luân lý sâu xa hơn là phụ nữ phải bán thân thì: nhân cách-tư cách-phong cách của họ còn liêm chính-liêm khiết-liêm sỉ hơn bọn bán nước! Hegel định nghĩa một chính quyền chính thống luôn dụng lực của quyền vì lợi ích cho tập thể cho cộng đồng, cho dân tộc. ĐCSVN không hề có lực, có tầm, có vóc để nhận nhiệm vụ lịch sử này; bi thảm hơn họ truy diệt đa tài, họ kiềm ám đa năng, họ trù dập đa hiệu, chỉ vì họ mất ăn mất ngũ vì tuệ giác của đa nguyên trong đa trí của đa đảng, đây là một đại nạn cho Việt tộc ! ĐCSVN luôn thủ tiêu hệ đa (đa tài, đa năng, đa hiệu, đa trí) của đa nguyên qua đa đảng trong hay, đẹp, tốt, lành để tiếp tục ngu dân qua bản chất xấu, tồi, tục, dở của họ, họ cũng không ngần ngại đưa những hành động chính trị thâm, độc, ác, hiểm vào xã hội Việt, vào nhân dân Việt, xã hội Việt, làm nhiễm ô cả đạo lý Việt, nhân phẩm Việt. 


       Thức tỉnh phải trong hệ thức: lấy kiến thức để xây dựng tri thức, nhận trí thức để tạo ý thức, đón nhận thức để có tỉnh thức. Không biết hệ dây chuyền: kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tỉnh thức thì ĐCSVN đừng lãnh đạo, lãnh đạo mà vô thức, thì dẫn tới vô minh, để rơi vào bẫy vô tri, chóng chầy sẽ rơi vào vô giác, sẽ gây họa cho dân tộc, tạo nạn cho giống nòi. Thức là hệ lãnh đạo chính trị vừa tỉnh để có tỉnh táo, vừa động để hành động đúng lúc hợp thời, đúng thế. Hãy xem lại quá trình đào tạo lãnh đạo tại các nước văn minh, nếu không nói là tân tiến, ở đó có kiến thức trước quần chúng để gầy dựng tri thức sớm làm nền cho mọi chính sách, tránh hẳn chuyện “sai một ly đi một dặm”, như kinh nghiệm khốn nạn của boxit Tây Nguyên, của Formosa tại Vũng Áng, giờ lại reo rắc thêm ba thảm kịch mới trên ba đặc khu mới Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc. Các lãnh đạo ĐCSVN chưa bao giờ được đào tạo về điều tra cơ bản qua tri thức dân chủ trong quy trình chuẩn bị thượng nguồn các chính sách; tại đây phải có một hệ trí thức chỉnh chu làm gốc cho ý thức chu toàn, để không xẩy ra chuyện “sai con toán bán con trâu”. Để khi hành động, thì được vũ trang bằng nhận thức chính xác về dữ kiện để có tỉnh thức sáng suốt của “người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu”, trước khi nhập cuộc và biết chống chỏi trước mọi thử thách! Trong quá trình lãnh đạo, từ ngày lập đảng cho tới bi kịch hiện nay của một đất nước ngày càng tụt hậu, các lãnh đạo của ĐCSVN không bao giờ trực diện để trực thoại với trí thức qua truyền thông đại chúng cũng như qua hội thảo, hội nghị, hội luận, mà trí thức chính là chuyên gia trong chuyên môn qua chuyên ngành của họ. Đây là một dàn dựng biển lận tri thức trong lãnh đạo của ĐCSVN, cũng như Việt tộc đã thấy qua biển lận dân chủ, kiểu «đảng cử, dân bầu»; mà trong sự thật lịch sử thì chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bầu cho ĐCSVN lãnh đạo số mệnh của dân tộc, vận mệnh của đất nước, nói lên một chân lý của chính thể không quốc thể: ĐCSVN không liêm chính vì không có liêm sỉ và kẻ không có hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sĩ) thì không bao giờ có lẽ phải!


       Sạch trong quy trình gầy dựng chính sách của các nước dân chủ, tại đây các thủ đoạn tham ô, tham nhũng bị chặn ngay thượng nguồn, nơi đây kẻ lãnh đạo đi từng bước từ chính sách tới quyết định, từ quyết định tới hành động, từ hành động tới thành quả, lấy cần mẫn để làm rõ bổn phận, lấy chí công để nhận trách nhiệm, lấy hy sinh để thao tác mọi hành vi lãnh đạo. Không hề có chuyện chia chác với nhau qua «rút ruột» để trục lợi riêng. Sạch trong tiến hành qua cơ chế, từ chỉ đạo qua hành chính, từ quản lý tổng quan tới hành động lãnh đạo cụ thể thường nhật, nơi đây cơ chế sạch để liêm chính hóa mọi thủ tục, để trong sạch hóa mọi tổ chức từ nhân lực tới đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nơi mà kết quả là hiệu quả lãnh đạo, không có chuyện tránh, né, lách, xé luật để đầu cơ, không có chuyện rút vốn, cắp tài nguyên, vật liệu để làm giầu riêng. Sạch trong hành động chính trị thấy rất rõ trong phong cách lãnh đạo thanh bạch, chấp nhận thanh đạm vì dân tộc, nhận luôn cả thanh bần để tròn nhiệm vụ, để tròn nghĩa vụ với đất nước, lấy đồng lương nuôi cuộc sống cá nhân. Chuyện biệt dinh, biệt phủ là «thành quả» của bọn đầu cơ chính trị, đầu nậu chính sách, không hề là chuyện của kẻ lãnh đạo liêm sỉ, không hề là hành động lãnh đạo liêm chính. Sạch để trong chính trị, để sáng lãnh đạo; sạch từ thượng nguồn trong quá trình đào tạo các cá thể lãnh đạo, sạch trong quy trình gầy dựng chính sách. Sạch trong đánh giá thành quả và hậu quả phải rõ ngay từ đầu: thấy chuyện hay cho dân tộc, chuyện tốt cho giống nòi, chuyện lành cho xã hội, chuyện đẹp cho đất nước thì đầu tư, thì lập chính sách, thì hành động, trọn vẹn chí công vô tư. Thấy chuyện xấu cho dân tộc, chuyện tồi cho giống nòi, chuyện tục cho xã hội, chuyện dở cho đất nước, thì đừng đầu tư, thì đừng lập chính sách, thì đừng hành động, đánh giá thành quả và hậu quả là chuyện cân, đo, đong, đếm, hoàn toàn duy lý qua lý luận và lập luận có kiểm soát của tập thể, có đối thoại với cộng đồng, có sự đàm phán của nhiều chính kiến đóng vai trò khách quan hóa lãnh đạo chính trị. Sạch trong đào tạo lãnh đạo nơi mà học lực bảo trì cho học vị, bảo hành cho học hàm; học trong nghĩa học tập trong tu thân, học hành trong tự rèn luyện, sạch ngược lại với bẩn, với hai loại ô nhiễm trong chính giới: bất tài, vô chí luồn lách qua cửa ngõ tham quan, tham nhũng. Sạch từ đầu đến cuối để tách ra khỏi loại ngụy biện “đánh chuột tránh vỡ bình”, mà ta chỉ thấy bạo động với đạo đức giả luôn đi đôi với thanh trừng nội bộ, một loại chính trị rừng, không trong và không sạch. Sạch để tránh loại xảo biện “đưa củi vào lò”, một loại bạo hành chính trị luôn đi đôi với thanh lọc bè phái, của bạo lực “mạnh được, yếu thua”, của loại bạo quyền “thắng làm vua, thua làm giặc”. Sau gần một thế kỷ, từ 1930 cho tới nay, nhất là từ khi thống nhất đát nước 1975, ĐCSVN hoàn toàn bất lực để tự trong sạch hóa, để làm gương tốt cho xã hội, mà ngược lại ĐCSVN hiện nay là nơi chế tác ra những cái bẩn nhất từ tham nhũng rồi chuyển tiền ra nước ngoài, tới các tướng công an tổ chức đánh bạc luận qua mạng truyền thông ngay trong các sào huyệt công quyền của ĐCSVN. Và, ĐCSVN sẽ không bao giờ sạch khi dùng độc quyền để tà quyền trong bạo quyền để cướp bức dân tộc, để bán đất nước qua đặc khu. 


       Dính Đảng như dính thân là thực trạng của vài trường hợp mà y khoa thông báo cho chúng ta qua các trường hợp sinh đôi hiếm hoi: hai đứa trẻ ra đời cùng một lúc, có phần lớn các nội tạng nhưng chỉ có một cột xương sống, hai cá thể nhưng phải chia cùng cuộc đời, cùng kiếp sống. Khi y khoa quyết định muốn cứu cả hai thì phải tách ra, để hai là hai, chớ không phải hai là một, tách ra để mỗi kẻ có kiếp riêng, có đời riêng, nếu không tách được thì đứa này có thể là họa của đứa kia. Cụ thể là đứa mạnh luôn làm khổ đứa yếu, đứa mạnh luôn lấy sức mạnh để khống chế, để áp đặt, để bạo hành, để bó buộc đứa yếu phải làm theo ý muốn, ý định, ý đồ của đứa mạnh. Dính đảng lại là chuyện có thật trong chuyện chung đời-cộng kiếp giữa hai đảng anh-em: đứa mạnh làm anh là ĐCSTQ-Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứa yếu làm em là ĐCSVN-Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi hai đảng này ra đời, từ khi hai đảng này chọn quỹ đạo chuyên chính để thống trị qua cái độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn), chọn chuyện ăn đời-ở kiếp với nhau, nhưng trên thực tế thì đây là chuyện vừa cưỡng hôn, vừa cưỡng thân. Một đại họa cho Việt tộc, mà muốn sống còn trong vai em-thế yếu thì phải tìm mọi cách để tách ra, thoát ra, càng sớm càng hay. ĐCSTQ luôn can thiệp, luôn xen vào nội bộ, phân hóa các lãnh đạo, và trên thực tế là tổ chức nhân lực lãnh đạo cho ĐCSVN, đứa mạnh-đàn anh luôn tìm cách ở trên cao để chi phối, để quyết định số kiếp đứa yếu-đàn em, bằng những thủ đoạn xấu, tồi, tục, thấp; bằng các xảo thuật độc, ác, thâm, hiểm. Lúc thì “chơi ngang” dùng ma đạo để cắt đôi đất nước Việt ngay hiệp định Genève 1954; lúc thì “chơi đểu” cướp biển, cướp đảo của Việt Nam; chưa kể bao lần “chơi ngược” qua các chiêu bài cố vấn quân sự kiểu “biển người” coi sinh mạng Việt như cỏ rác, và nhiều lần“chơi ác” đưa đẩy lãnh đạo ĐCSVN vào con đường giết dân, qua cải cách ruộng đất. Hiện nay, thì bao vây kinh tế Việt, từ nhập khẩu hàng Tàu tới gây ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh, giăng bẫy chính trị, tổ chức nội gián, giáo dưỡng bọn phản phúc buôn dân, bán nước, giết hại các lãnh đạo chân chính mưu cầu độc lập, tự chủ cho Việt tộc. Hãy kết luận: dính thân mà yếu thì chỉ có chết! Dính đảng mà hèn thì chỉ dẫn đến vong quốc, diệt nòi. Hãy quyết định không dính nữa! Hãy quyết đoán là tách ra! tách để sống, tách để giữ nhân phẩm, tách vì có nhân cách, tách một cách dứt khoát để Việt là Việt!


       Chuyên ngược, ĐCSVN sinh ra trong nôi đấu tranh bằng bạo lực của giai cấp-bất chấp dân tộc, nên không chuyên nghiệpchuyên ngược, qua ngữ văn chuyên, bị thô bạo hóa qua ngữ pháp chuyên chính, để vào quỹ đạo bạo lực của chuyên quyền, mà quá trình tham quyền cố vị giờ đã sinh ra thảm họa mua quyền bán chức trong mọi tầng lớp lãnh đạo. Ngày ngày chuyện chuyên ngược sinh ra bao quái thai: quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để truy diệt trí tuệ của chuyên. Cái chuyên xuôi của hệ chuyên ngành-chuyên môn-chuyên gia-chuyên nghiệp bị gạt bỏ, tiêu hủy, loại trừ, và ĐCSVN đã chọn chuyên ngược qua chuyên chính để chuyên quyền: đây là tử lộ trước toàn cầu hóa hiện nay! Tại đây chỉ có cái khôn xuôi mới có đất sống! Còn cái ngu ngược thì sẽ chết “bất đắc kỳ tử”! Hãy trả lại thẻ đảng và đi tìm các quyền vì dân, trong đó có quyền nâng dân là một thực tế trong các nước văn minh tức là các quốc gia hiện nay có nhân quyền nhờ dân chủ, thực tế này có được là nhờ chính thể của họ có chính quyền dùng quyền lực để nâng nhân dân của họ lên về mọi mặt, nhất là về nhân trinhân trí. Đây là mối lo, “mất ăn mất ngủ”, của các chế độ độc tài hay độc đảng đang chứng kiến rất rõ mối quan hệ gắn bó giữa nhân quyền qua dân chủnhân tri qua nhân trí. Quyền nâng dân không những nâng mực sống của nhân dân, mà hùng lực của nó tại quốc gia hiện nay có nhân quyền, dân chủ tức là có văn minh là chuyển hóa các cá nhân, trước hết thành các cá thể phải được chính quyền tôn trọng, để thực sự có vị, có thế, có lực của chủ thể. Định nghĩa của chủ thể là quyền giành tự do cho mình để lấy sáng kiến trong sinh hoạt xã hội. Trong đó sinh hoạt chính trị qua tuyển cử, đầu phiếu luôn làm tăng sức sáng tạo của chủ thể để càng ngày càng có nhiều tự do hơn, chính đây là sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ: hệ độc (độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn) và hệ đa (đa nguyên, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu). Chính sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ này đã biến thành sự mâu thuẫn, rồi trở thành xung đột, để xung kích lẫn nhau trong quan niệm cũng như trong chuyện thực thi quyền lực. Hệ độc thì tìm cách loại, tiêu, hủy, diệt sáng kiến và sáng tạo; còn hệ đa nâng, cõng, đỡ, đẩy sáng kiến và sáng tạo của cá nhân, không còn là những cá thể lẻ loi, mà thực sự là chủ thể có vị, có thế, có lực trong sinh hoạt xã hội cũng như trong sinh hoạt chính trị. Quyền nâng dân là quyền nâng sáng kiến của cá nhân để cá nhân có cơ hội mà nâng tập thể, cộng đồng, dân tộc, là quyền nâng sáng tạo của chủ thể qua phát minh dùng thông minh của mình để đóng góp trực tiếp vào nguyện vọng “cơm no, áo ấm” cho dân tộc. Sức mạnh của chủ thể hiện diện luôn trong ý nguyện “nước giàu, dân mạnh”, vì chính các chủ thể được chính quyền tạo điều kiện thuận lợi từ giáo dục tới xã hội để dễ dàng vào quy trình của khám phá, tạo ra các phát minh để đẩy mạnh phát triển, thực sự đóng góp vào chuyện “thay đời, đổi kiếp” của dân tộc theo hướng thăng hoa. Quyền nâng dân cụ thể là để đảm bảo sáng kiến của chủ thể biết dùng tự do của mình để sáng tạo, từ đó nhận trách nhiệm trực tiếp với đất nước, từ đó nhận bổn phận tức khắc với dân tộc. Đây là nhiệm vụ của một chính quyền liêm chính, là “thiên vụ” của kẻ lãnh đạo, và nếu muốn lãnh đạo mà không có một ý niệm gì về chuyện dùng quyền lực của mình để nâng dân tộc mình lên thì đừng lãnh đạo! Thì đừng chiếm chỗ của người khác, nhất là khi họ là những chủ thể chính thống!  Hãy rời đảng để được trọn vẹn làm chủ thể!


       Chủ hóa nhân quyền là lằn ranh phân chia làm ra mức phân định giữa một chính quyền vì văn minh của xã hội, vì phát triển của đất nước, vì đạo lý của dân tộc, luôn ngược lại với loại chính quyền lấy độc quyền để lạm quyền, lấy độc tài để diệt đa tài của nhân dân. Chính nhân quyền khi được tôn trọng sẽ có các cá nhân trở thành chủ thể lấy tự do của mình để sáng tạo ra các phát minh “ích nước, lợi dân”, sẽ có các tập thể lấy tự chủ của mình để chế tác ra các sáng kiến mới vì “dân giàu, nước mạnh”, sẽ có các cộng đồng lấy tự giác của mình để bảo trì các giá trị, các di sản, các đạo lý của tổ tiên qua “cha truyền, con nối” theo nghĩa đẹp. Quyền chủ hóa nhân quyền, khi nhân tình được nhân tính nâng lên, khi nhân thế được nhân tri đẩy lên, khi nhân loại được nhân lý đề cao, thì chính nhân quyền này sẽ có nhân bản, nhân văn, tạo ra ý thức tập thể, sinh ra nhận thức cộng đồng, giúp chế tác ra tâm thức cá nhân, biết tôn trọng công lợi để bảo vệ tư lợi. Từ đây, lãnh đạo chính trị sẽ làm cầu nối để nhân quyền gặp được chủ quyền (cho dân, vì dân), trong đó nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, phê chuẩn các kết quả qua hiệu quảhậu quả của các chính sách, trực tiếp sử dụng chủ quyền của mình trong pháp luật để đầu phiếu, để tuyển cử, tạo ra tranh cử, để có được lãnh đạo thực tài và liêm chính trong sạch. Quyền chủ hóa nhân quyền lý trí, biết tách nếp sống văn minh ra khỏi thói quen mê tín, tách lý tính ra khỏi cuồng tín, chuyện tách ra để trực diện đấu tranh với cái xấu, tồi, tục, dở của ngu dân, lý trí này bắt buộc phải có trong tư duy của người lãnh đạo. Hãy rời bỏ ĐCSVN, để chọn làm công dân Việt một cách liêm chính nhất: biết bảo vệ vốn liếng của tổ tiên mình, qua sự thật của lịch sử, qua chân lý của niềm tin, qua các giá trị đạo lý làm nên lẽ phải, để dân tộc Việt được khai sáng và thực sự làm chủ lòng tin của mình, như làm chủ số phận của mình. Quyền chủ hóa nhân quyền là vinh dự của kẻ biết trao, biết tặng, biết dâng lên cho tổ quốc mình, cho dân tộc mình quyền làm chủ chữ nhân qua chữ lý!


       Dân chủ hóa thật thì nắm được nhân tình, vì quyết tâm không để mất tiền đồ mà tổ tiên, cụ thể là không để mất di sản lẫn văn hóa, không để mất chất xám trí thức lẫn hệ thống huấn luyện và đào tạo các thế hệ tương lai, chống các ý đồ bành trướng xăm lăng muốn bứng gốc-nạo rễ vốn liếng của dân tộc mình. Trong tâm địa của Tàu tặc, chúng làm hai chuyện cùng lúc: cắt ruột nạo ruột; trước hết là cắt ruột để cắt toàn vẹn lãnh thổ của một dân tộc; nạo ruột là đào cho rỗng mọi tài nguyên, mọi tiềm năng của một đất nước. ĐCSVN với các lãnh đạo hiện nay đã nghiên cứu đầy đủ về bài toán thâm, độc, ác, hiểm gây đứt ruột-cắt đứt ruột-nạo rỗng ruột của Tàu tặc chưa? Việt tộc đừng để bọn bán nước theo gót của Tàu tặc khai thác 3 ý đồ (ruột) này qua các đặc khu! Hành vi của kẻ lãnh đạo phản ảnh ít nhất hai cốt lõi trong thực chất của con người lãnh đạo: khả năng lãnh đạođạo đức lãnh đạo, hai cốt lõi vượt xa và vượt ngoài các khẩu lệnh tuyên truyền: hồngchuyên, rổng về diễn luận và trống về giải luận. Khả năng lãnh đạo có nền là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án), quyết định khả năng của học, nơi mà học vịhọc hàm luôn được căn cứ vào học lực, cấm tuyệt đối chuyện học giả, thi giả, bằng giả. Chính học lực, tức là học thật, thi thật, bằng thật, kết tinh ra phương trình học lực-học thật để bảo trì cho thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức). Ở đây, tất cả đều thật về tiềm năng, đều thật về khả năng lãnh đạo, phương trình giáo-học-thức hiện nay không có chỗ trong ĐCSVN lấy chuyện “đánh lận con đen” để tráo lừa nhau, thanh trừng nhau. Chính nhờ có liêm chính trong giáo-học-thức nên có liêm sỉ trong đạo đức lãnh đạo, hãy trả lại thẻ đảng để đấu tranh cho các cơ chế công minh, trong một chế độ liêm minh, dụng công bằng qua công lý để thực hiện được chuyện so ra mới biết ngắn dài trong vai trò, chức năng lãnh đạo đất nước. Tại đây, phương trình gian lận quan hệ-tiền tệ-hậu duệ không hủy diệt được trí tuệ của công dân. Vì nhân dân luôn có thẩm quyền để so sánh các khả năng giữa các lãnh đạo trong đa nguyên và dân chủ, mà không quên là sau này lịch sử sẽ làm tiếp chuyện cân, đo, đong, đếm này khi các lãnh đạo ĐCSVN rời cõi đời này. 


       Đối đầu với thử thách, với thăng trầm là chuyện “cơm bữa” của các chủ thể liêm chính đấu tranh vì dân tộc và đất nước, đối đầu là đối diện để phản biện cũng là chuyện “đi chợ” để nuôi trí, nuôi tâm kẻ có liêm sĩ. Vì nếu không chấp nhận chuyện đối đầu để hiểu thêm tình hình, để có nhận định tổng quan, để hiểu tâm lý và tính toán của các kẻ khác ta chưa là chủ thể có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào. Đối đầu chính là trực diện với khó khăn để tìm đáp số, đây là lúc “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, đặt các lý lẽ của lương tâm mình trước thực tế lạc hậu của đất nước, trước thực trạng bi đát của dân tộc. Đối phương, luôn có mặt trong đời sống chính trị, luôn hiện diện mỗi lần chính quyền ban hành một chính sách, thường trực xuất hiện trong cuộc sống xã hội vì khác biệt, vì đối nghịch về quyền lợi và quyền lực với lãnh đạo chính trị đương nhiệm. Nhưng chủ thể mà khôn ngoan thì không bao giờ biến đối phương thành kẻ thù, tránh tối đa biến đối phương thành tử thù. Chỉ vì diệt, trừ, khử, giết đối phương chính là đang diệt, trừ, khử, giết thông minh của chính mình, vì đối phương thấy, hiểu, thấu, sống những dữ kiện, những kinh nghiệm, những vốn liếng mà chính ta không có, không biết, không hiểu; nếu không thấu chuyện phải học đối phương thì đừng lãnh đạo! Cũng không sợ đối lập có lực triệu tập đối kháng, mời gọi đối trọng để tạo ra cán cân lực lượng thuận lợi để đề kháng, để chống đối lại tà quyền, đây cũng là chuyện “cơm bữa”, “đi chợ”, “thử lửa”, mà một công dân liêm chính phải công nhận để nhìn rộng hơn, để thấu suốt sâu hơn. Tại đây, tuyên truyền một chiều, áp đặt ý thức hệ, thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo như ĐCSVN đã làm không ngừng nghĩ trong mê dại chỉ là chuyện dìm dân trong ngu dân, xuẩn động trong bị động. Rời đảng, trả lại thẻ đảng để nhận đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận), cội nguồn của đa nguyên, cũng là gốc rễ của thông minh chính trị!


       Không khuất phục để biết mình là ai? Việt gốc hay không? theo nội dung yêu nước thương nòi, với ý nghĩa thiêng liêng nhất của định nghĩa «đồng bào», chớ không phải chỉ cần có quốc tịch Việt hay tổ tiên Việt là đủ, thì phải tự khẳng định rằng ít nhất ba việc mình chính là con dân của một dân tộc:

        Không bao giờ khuất phục bất cứ ngoại xâm nào, tới từ bất cứ phương trời nào, dù chúng có to nhất, có giầu nhất.

        Không bao giờ chịu phận mất nước, làm thân nô lệ, dù phải trả những giá rất đắt để giữ độc lập.

        Nhận quyết tâm độc lập dân tộc như tiếp cùng lúc hai hệ vấn đề: một là bản sắc Việt tính bất di bất dịch, hai là về nhân phẩm Việt lực của mình.

Ba khẳng định chính kiến chính là ba xác nhận công dân để trước hết biết mình là ai? Sau đó để biết mình thuộc dân tộc nào? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối. Như vậy, những kẻ không có, hoặc không muốn có ba chính kiến này thì chưa chắc đã là thành viên của Việt tộc! Việt chính, ngược hẳn với Việt gian,chính đạo nhờ có chính nghĩa, có chính tâm song hành cùng chính lý, có chính khí nên có chính ngôn, trước sau như một, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, muốn làm lãnh đạo thì sẵn sàng hy sinh vì dân tộc, chết vì nước. Chắc chắn không phải là loại lãnh đạo, vừa vơ vét, vừa có thẻ xanh, có quốc tịch ngoại quốc, để khi Tàu tặc tới, lại bỏ chạy qua phương Tây, rồi lẩn lút như đám ma bùn, ma xó.





Vật đổi sao dời trong đời người là có thật, vật đổi sao dời lại càng đúng trong lịch sử với «nắng sớm, mưa chiều», càng đúng hơn với tà quyền «sớm nở, tối tàn»; trong đó nếu đồng chí là bọn xấu lãnh đạo thì chuyện «lừa thầy, phản bạn» đối với chúng là chuyện «cơm bữa»! Giữa đồng chí lãnh đạo có hành vi bán nước mờ ám trước nổi khổ niềm đau của đồng bào, xin các đảng viên ĐCSVN hãy chọn: đồng bào!






Hãy dùng định nghĩa nhân phẩm Việt của Việt tộc chính gốc để lật trần chữ đồng chí, không còn một nội dung nào có ý nghĩa với bọn mang dã tâm bán nước, không còn có một nội hàm luân lý nào với bọn “sâu dân mọt nước”. Lấy nhân phẩm Việt để lột mặt nạ bọn“thừa nước đục thả câu” trong tham nhũng, “thừa gió bẻ măng” trong tham ô, “đục nước béo cò” trong tham quyền, với trò “cóc mò cò ăn” trong tham quan. Chúng khai thác tận tủy xảo quyền tham quan-tham quyền-tham ô-tham nhũng, chúng chính là nổi oan khiêng hiện nay của hàng triệu dân oan!





Nếu các bạn còn giữ thẻ đảng viên ĐCSVN sẽ là thảm họa trong mai hậu, sẽ bị xập bẩy-rơi hố-mắc lưới-tròng đầu qua xảo quyền “kẻ ăn ốc, người đổ vỏ” của bọn lãnh đạo: từ đảng viên chân chính mà thành nạn nhân của lịch sử khi dân tộc đưa ĐCSVN ra công lý của công quyền, ra pháp lý của pháp luật.





Hãy trả thể đảng ĐCSVN để nhận lại nhân phẩm Việt!






Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa. Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứ Đông nam á.

Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire