Nhạc sĩ Tuấn
Khanh
Năm 1992,
khi những hình ảnh của Việt Nam thiên sử truyền hình (Vietnam: A Television
History) đột nhiên được cho phép phát trên truyền hình nhà nước, những ngày đón
coi bộ phim tài liệu đó đã trở thành những cơn sốc lặng lẽ cho tuổi thiếu niên
tôi, ngày tháng ấy.
Là một đứa
trẻ vào lớp một sau năm 1975, trang vở đầu tiên đã ướt đẫm nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa, đó lần đầu tôi được nhìn thấy cuộc chiến tranh trên quê hương mình
từ phía sau các tấm bảng tuyên truyền. Cảm giác thật lạ lùng.
Khi màn hình đã
tắt, mọi người đã ngủ say, tôi vẫn nằm nhìn lên trần nhà trong đêm tối, trằn
trọc vẩn vơ nghĩ thật nhiều điều. Cuộc chiến đầy những mảng màu rực rỡ trên
sách giáo khoa, rồi trên loa phóng thanh ở các ngã tư mỗi sáng sớm, bỗng chợt
hiện ra trong tôi lõi trắng đen trần trụi, và để lại quá nhiều suy nghĩ.
Dẫu đã bị cắt
đi những điều bất lợi cho phe miền Bắc, nhưng chí ít, ngôn ngữ dẫn dắt bình
thản của Will Lyman trong phim đã để lại rất nhiều thông điệp cho tôi để chiêm
nghiệm. Thật ngạc nhiên, trong trí óc bé nhỏ đầy những câu chuyện về “bác Hồ”
và anh “giải phóng quân” của mình, vốn bị khóa chặt trong các bài học giáo khoa
từ năm 1976, có cái gì đó bật lên trong tôi một cảm giác mơ hồ khác lạ rằng tôi
đang nghe những lời nói dối.
Quả là những
ngày tháng mới mẻ trong suy nghĩ. Tôi bắt đầu kéo tấm rèm che, nhìn qua cửa sổ
và nhìn thấy nhiều người miền Nam đang cố làm quen với một đời sống cộng sản
ngột ngạt, và nhìn thấy không ít người miền Bắc đang tin rằng cuộc chiến mười
ngàn ngày ấy, là một cuộc giải phóng vĩ đại.
Trong phim,
tôi nhớ hoài những chiếc trực thăng trên hàng không mẫu hạm Mỹ ở ngoài khơi
Thái Bình Dương bị đẩy xuống biển để nhường chỗ cho những tốp người tỵ nạn cập
vào. Hình ảnh đó sao cứ loay hoay, chưa bao giờ dứt trong trí nhớ, suốt nhiều
năm dài.
Như những
con chim sắt kiêu hãnh bay lượn trên bầu trời, chúng đáp xuống và mở bụng ra
trên boong tàu, đẩy những con người chấp chới và yếu đuối chạy ra. Đó là những
người Việt không quen biết. Tôi còn nhớ ánh mắt họ mệt mỏi, vô định. Nhiều năm
sau, tôi vẫn tự hỏi những thanh niên, cô gái, cụ già ấy… năm xưa ấy nay đang ở
đâu?
Non nửa thế
kỷ, vào lúc rất nhiều người miền Nam không ngại nói ra trên các trang mạng xã
hội rằng họ không thích cộng sản, cũng như rất nhiều người miền Bắc nói rằng
ngày 30 tháng 4 chẳng có gì đẹp để nhà cầm quyền ăn mừng, ngẫu nhiên tôi gặp
được một trong những người luôn nằm trong ký ức của mình. Một người đã lái
chiếc trực thăng UH1 đáp xuống hàng không mẫu hạm US Midwway, thuộc Hạm đội 7
Hoa Kỳ.
Thiếu úy Lê
Văn Chiếu, thuộc Không đoàn chiến thuật 84 Cần Thơ, người đang lái chiếc UH1
vào buổi trưa ngày 30-4-1975 ở Sài Gòn thì nghe trên vô tuyến điện lời tuyên bố
đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh. Ông hoang mang nhưng không muốn dừng
lại, mà bay thẳng ra Côn Đảo, một căn cứ tiếp liệu của không quân ở đó. Chỉ có
một mình, mang trong bầu máu nóng của tuổi 20, ông chỉ muốn lấy đầy xăng và bay
ra đi hướng Hạm đội 7 chứ không chịu quay về nơi đã chấp nhận buông súng.
Ông Chiếu kể
lại, khi ông leo lên trực thăng để chuẩn bị bay, thì nhìn thấy trong đó đã đầy
người di tản chạy lên ngồi sẳn trong đó từ lúc nào. Mọi người không ai muốn ở
lại, chỉ muốn ra đi, bất chấp chuyện chiếc trực thăng đang quá tải. Sau vài lần
thuyết phục không xong, ông Chiến đành dỡ hết tất cả phi đạn và quân cụ trên
máy bay bỏ lại, năn nỉ mọi người bỏ bớt thêm hành lý để trực thăng có thể cất
lên.
Đó chỉ là
phần khởi đầu của một chuyến đi phó thác cho số mạng. Chiếc trực thăng ì ạch rà
lết gần hết đường băng, mới có thể bay lên vào phút chót. Những con người căng
thẳng, nín thở chờ và khi thấy cuối cùng đã có thể bay lên, òa lên mừng rỡ, vỗ
tay như xem nhạc hội.
Chiếc trực
thăng đó mang một kỳ tích là chở 23 người Việt Nam (khả năng cho phép là 14
người), nhắm hướng Hạm đội 7 Hoa Kỳ đi thẳng. Không ai nói với ai điều gì. Chỉ
có tiếng cánh quạt sầm sập quay đều và tín hiệu gọi cầu cứu lặp đi lặp lại đan
xen nhau không ngừng. Hướng ra biển chiều 30-4 ấy bỗng sầm sập mưa bão, đầy mây
đen. Đã bay gần một tiếng đồng hồ mà không nhận được tín hiệu đáp lại nào từ
radio, cũng không biết là đang đi về đâu, đã có lúc ông Chiếu nghĩ đến chuyện
hết nhiên liệu và rơi xuống biển.
Cứ bay mơ hồ
như vậy không ngừng, giữa cơn mưa và bầu trời tối đen, cuối cùng đột nhiên trên
radio vang lên lời đáp của một giọng người Mỹ. Ông Chiến kể rằng khi ấy, ông
mừng đến quýnh quáng, trả lời và nói rằng không biết mình ở đang đâu. Chỉ đến
khi mã nhận dạng và tìm địa điểm squawk (*) kết nối được, ông Chiếu mới thở
phào nhẹ nhõm vì chỉ còn hơn chục phút nữa là chiếc trực thăng sẽ hết nhiên
liệu. Giọng nói trên radio vang lên “chào mừng anh đến với USS Midway của Hạm
đội 7”.
Đường bay
đến boong tàu hàng không mẫu hạm hôm ấy, bầu trời đầy những chiếc trực thăng
không còn đồng đội, không còn nơi chốn để quay về. Chiếc trực thăng của thiếu
úy Lê Văn Chiếu chỉ là một trong hàng trăm chiếc đang lao ra biển, mở đầu cho
những ngày tháng bi đát sau đó, của hàng trăm ngàn người Việt ở miền Nam Việt
Nam muốn được sống một đời sống không cộng sản.
Ông Chiếu kể
lại, khi ông đáp xuống, một tiểu đội Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trang bị vũ khí
nghiêm ngặt khám xét từng người và chia ra. Khi thấy dòng người Việt không
ngừng tuôn ra từ chiếc trực thăng nhỏ của ông Chiếu, ai nấy đều kinh ngạc. Cất
cánh và đáp được trên biển với số người ấy, chỉ có thể là phép lạ.
Ngay sau khi
ông Chiếu được ra vào bên trong tàu USS Midway, cũng là lúc ông nhìn thấy chiếc
trực thăng đó bị đẩy xuống biển. Ông lướt đi qua nhiều người với nỗi vui buồn
lẫn lộn. Một trong những người ông bước nhanh qua là Phó Tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ, đang thọc tay vào túi quần, nhìn về đất liền.
Năm 1985,
sau khi học và làm nhiều nghề, ông Chiếu ghi danh trở lại làm phi công trực
thăng cho National Guard Hoa Kỳ cho đến khi ông về hưu. Hiện nay ông đang là
người hướng dẫn âm nhạc cho Giáo đoàn các Thánh tử đạo Việt Nam ở Lancaster,
Pensylvania.
Tôi ngồi
nghe câu chuyện của ông Chiếu, cùng người bạn của ông, Vũ Hoàng, cũng là một
cựu phi công trực thăng chiến đấu. Họ kể lại rất nhiều chuyện của thời trai
trẻ, nhưng nói rất nhẹ nhàng và thoáng qua về những cuộc chiến mà họ tham gia.
Ông Hoàng nói rằng những gì gọi là chiến tích của mình, ông cũng không muốn
nhắc lại, vì dẫu có vinh quang, đó cũng là nỗi buồn của một dân tộc phải lưỡng
bại câu thương trong một cuộc chiến vô nghĩa.
Câu nói đó
khiến mọi người chùng xuống trong cuộc trò chuyện tháng Tư. Quả là có những ký ức
cần phải được ngủ yên, thì từng con người mới có thể thanh thản đi hết cuộc
đời, bao gồm cả những ký ức được gióng trống hô vang tên gọi “giải phóng”, và
gọi tên nhau là kẻ thù. Cuộc xâm lăng của miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
vào quốc gia miền Nam Việt Nam Cộng Hòa có thể đem lại một định mệnh khác của
dân tộc là thống nhất, nhưng nếu ký ức không được trả lại sự thật, thì tương
lai của thống nhất ấy cũng sẽ mãi bấp bênh. Tương lai cả đất nước chỉ duy nhất
là một tháng Tư hỗn loạn và thương đau được trình chiếu mãi mãi với từng thế
hệ.
Tôi vẫn
không sao dừng được việc hỏi câu cuối cùng với thiếu úy Lê Văn Chiếu, là vì sao
ông lại chọn bay thẳng ra biển mà không quay về sống một đời thường dân trong
Việt Nam. Ông Chiếu trả lời bằng nụ cười hiền lành, nhỏ nhẹ nhưng rành mạch
“Nước có thể mất, nhưng người lính thì không thể đầu hàng, em à”.
———————————–
(*) Đài
không lưu cấp cho mỗi máy bay trong vùng kiểm soát của mình một mã nhận dạng,
gọi là squawk. Phi công nhập con số này vào transponder. Từ lúc đó, mỗi khi sân
bay gửi tín hiệu, thiết bị sẽ tự động gửi mã squawk về sân bay và do đó đài
điều khiển không lưu ATC biết được máy bay nào đang ở vị trí nào.
Phi công
cũng có thể tự chọn một mã squawk và thông báo cho đài điều khiển không lưu ATC
biết mã squawk đó.
Mã squawk
gồm 4 chữ số, từ 0000 đến 7777, trong đó có 3 mã được quy định là phi công chỉ
dùng trong trường hợp đặc biệt: 7500 thông báo đang có không tặc trên máy bay,
7600 thông báo mất liên lạc COMM, 7700 thông báo tình trạng khẩn cấp.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire