Nguyễn Quang Dy
Đánh giá các thách thức đến từ Trung Quốc
Thời chiến tranh lạnh, để đối phó với Liên Xô, George Kennan đã viết “Nguồn gốc Hành vi của Liên Xô” (The Sources of Soviet Conduct, “Mr X”, July 1947), sau đó đã trở thành kinh điển. Nay để đối phó với Trung Quốc, một số tác giả bắt chước Kennan lý giải hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy và đề xuất cách đối phó. Giáo sư Odd Arne Westad (Yale University) viết The Sources of Chinese Conduct, Foreign Affairs, September/October 2019.
Tháng 11/2020, Vụ Hoạch định Chính sách (Policy Planning) Bộ Ngoại giao Mỹ đã báo cáo về “Các yếu tố thách thức của Trung Quốc” (the Elements of the China challenge) cho rằng Trung Quốc muốn thay đổi trật tự thế giới để phục vụ mục tiêu độc đoán và tham vọng bá quyền của họ. Theo Odd Arne Westad, để đối phó với Trung Quốc, Mỹ không thể hành động một mình (The US Can’t Check China Alone, Foreign Affairs, December 10, 2020).
Tuy báo cáo của Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho “nhiệm kỳ hai của Trump”, nhưng nó liên quan đến các vấn đề của chính quyền Biden. Có lẽ chỗ yếu nhất của báo cáo là ý tưởng “dùng giải pháp của thế kỷ 20 để giải quyết vấn đề của thế kỷ 21”. Dù nhận định của báo cáo gần đúng với sự thật, nhưng giải pháp mà nó đề xuất có thể thất bại vì Bộ Ngoại giao đã hiểu sai về Bắc Kinh. Vì vậy, cần xem xét các mục tiêu cơ bản của Bắc Kinh là gì?
Một là Trung quốc tiếp tục trỗi dậy để kinh tế mạnh hơn và củng cố sự lãnh đạo lâu dài của đảng ở trong nước. Hai là Trung Quốc tiếp tục triển khai sức mạnh vượt trội tại Châu Á gồm phía Tây Thái Bình Dương, khu vực Trung Á và Đông Nga, vùng Himalayas và Ấn Độ Dương. Các mục tiêu này khá thuận lợi vì Nga và Nhật đều ốm yếu, còn Mỹ thì thất thường. Nhưng thái độ của Trung Quốc còn bị tác động bởi các yếu tố trong nước. Vì vậy, nếu báo cáo chỉ đổ lỗi cho sai lầm của Mỹ thì không chỉ chủ quan và sai lầm mà còn nguy hiểm.
Cách tốt nhất để Mỹ triển khai chiến lược là lợi dụng mâu thuẫn giữa hai mục tiêu cơ bản của Trung Quốc là vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bành trướng ra ngoài. Mỹ cần tăng sức ép để buộc Trung Quốc phải chọn giữa hai mục tiêu đó. Chính quyền Biden cần nỗ lực hơn chính quyền Obama và Trump để giúp các nước Châu Á chống lại sức ép của Trung Quốc, như tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ tại Indo-Pacific và thúc đẩy thương mại, đầu tư, công nghệ, khuyến khích Trung Quốc tuân thủ hiệp định và trừng phạt nếu họ vi phạm.
Báo cáo đề xuất rằng lợi ích của Mỹ là phải hủy bỏ và xây dựng lại có chọn lọc các thể chế quốc tế hiện hành. Với so sánh lực lượng hiện nay, đó là một ý tưởng điên rồ. Việc chính quyền Trump không thiết tha ủng hộ các tổ chức khu vực như EU và ASEAN nhằm tăng cường hợp tác đa phương, cũng là một sai lầm. Mỹ chỉ dựa vào sức mình là quá sức do thực tế hiện nay không giống thời chiến tranh lạnh bắt đầu. Lúc đó, Mỹ chiếm gần 50% GDP toàn cầu, nhưng Mỹ vẫn cần sự hỗ trợ của các nước đồng minh để giành thắng lợi.
Hiện nay, Mỹ chỉ chiếm một tỷ trọng GDP bằng một nửa thời trước. Nếu kinh tế Mỹ không đổi mới thì nó sẽ tiếp tục đà suy thoái. Hơn nữa, hệ thống chính trị gồm hai đảng của Mỹ không ổn định, và Washington không đủ năng lực để đối phó với đại dịch Covid-19, làm bộc lộ những điểm yếu của Mỹ. Hiện nay, đối với các nước trên thế giới, các chính sách và thể chế của Mỹ không còn là hình mẫu để họ noi theo. Báo cáo đề cao các chính sách của Mỹ nhằm “đem lại tự do” (secure freedom) đã hoàn toàn bỏ qua một thực tế cơ bản hiện nay là Mỹ chỉ có thể cạnh tranh hiệu quả với Trung Quốc nếu họ chịu cải cách thể chế trong nước.
Theo Joe Nye (cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), nhiều đồng minh tự hỏi điều gì đang xảy ra với nền dân chủ Mỹ. Nếu Mỹ đã sinh ra một lãnh đạo như Donald Trump năm 2016 thì liệu có thể lặp lại vào năm 2024 hay 2028? Phải chăng nền dân chủ suy thoái, làm cho Mỹ không còn đáng tin. Nhưng bất chấp dự đoán của cánh tả về sự suy sụp (doom) và của cánh hữu về sự gian lận (fraud), nền dân chủ Mỹ đã chứng tỏ sức sống bền bỉ (resilience). Nếu Trump kiểm soát được đảng Cộng hòa và nếu Cộng hòa vẫn nắm đa số tại Thượng viện thì Biden sẽ rất khó khăn. Điều đó lý giải tại sao tranh cử tại bang Georgia lại quan trọng như vậy. (Can Joe Biden’s America be trusted, Joseph Nye, Project Syndicate, December 4, 2020).
Để đánh giá về nguồn gốc sức mạnh của Trung Quốc, James Homes (Naval War College) đã nhận định: “Bắc Kinh muốn thắng mà không cần phải đánh”. Bắc Kinh tin tưởng có thể thắng dù Trung Quốc yếu hơn Mỹ về tổng thể, vì Quân đội Trung Quốc (PLA) có thể đảo ngược so sánh lực lượng tại chiến trường để áp đảo đối phương tại nơi và lúc quyết định. Trung Quốc có thể tồn tại lâu hơn Mỹ bằng “chiến tranh nhân dân trên biển”, một học thuyết được Bắc Kinh vận dụng để đối phó với liên minh gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ...
PLA ngày nay có nhiểu sự lựa chọn hơn Hồng quân trước kia. Thay vì chiến tranh nhân đân thuần túy kiểu Mao, PLA sẽ vận dụng tổng hợp các đơn vị lớn/nhỏ gồm tuần duyên, hải giám, và “dân quân biển” để đối phó với liên mình do Mỹ cầm đầu. Chiến sự có thể xảy ra khi “ngoại giao bằng cái gậy bé” (small-stick diplomacy) được Trung Quốc vận dụng để kiểm soát vùng biển họ đòi chủ quyền. Một khi điều đó trở thành “bình thường mới” hay “chuyện đã rồi” (fait accompli) thì nó có chính danh. (A People’s War Could Be China’s Key to Winning the South China Sea, James Homes, National Interest, December 22, 2020).
Theo báo chí, các nước phương Tây trước đây thường tránh làm mất lòng Bắc Kinh, nay đang xích lại gần hơn lập trường cứng rắn của Mỹ đối với Trung Quốc. Nếu trước đây, lãnh đạo EU coi Trung Quốc là “cơ hội” thì nay họ coi Trung Quốc là “đối thủ”. Năm ngoái, một báo cáo về chính sách của EU đã không coi Trung Quốc là đối tác (partner) hay đối tượng cạnh tranh (competitor) mà là “đối thủ hệ thống” (system rival). Khi một nhà ngoại giao Trung Quốc hỏi có thật EU coi Trung Quốc là đối thủ không, Tổng thống Pháp Macron đã nói thẳng “đúng thế” (You are a rival). (Pushback on Xi’s Vision for China Spreads Beyond US, Drew Hinshaw, Sha Hua, Laurence Norman, Wall Street Journal, December 28, 2020).
Theo một khảo sát của Pew Research (10/2020) mức độ bất tín nhiệm (distrust) đối với Tập Cận Bình lên rất cao ở hầu hết các nước được khảo sát. Tâm trạng này ở Châu Âu ngày càng lan rộng. Đại sứ EU ở Bắc Kinh nói năm ngoái sự ủng hộ Trung Quốc tại Châu Âu và các nơi khác đã giảm sút mạnh (massive disruption/reduction). Theo Wess Mitchell (cựu trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Châu Âu) “đồng minh tốt nhất của chúng ta để coi Trung Quốc là đối thủ, chính là thái độ của họ”. Trong khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói họ coi Châu Âu là “đối tác chiến lược” (strategic partner) chứ không phài “đối thủ” (rival), thì Bắc Kinh luôn đe dọa trừng phạt các nước mỗi khi có bất đồng. Đại sứ Trung Quốc tại Thủy Điển có lần nói với báo chí: “đối với kẻ thù, chúng tôi có súng săn” (for our enemies, we got shotguns).
Tuy Úc phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế, nhưng là nước đầu tiên cấm công nghệ Hoa Vi (Huawei Technology) và kêu gọi thế giới điều tra Trung Quốc xử lý coronavirus. Tuy Ấn Độ là một trụ cột của phong trào không liên kết trên thế giới nhưng đang mở rộng hợp tác quân sự với Mỹ và đồng minh trong khi có chiến sự với Trung Quốc tại biên giới hai nước. Trong khi Đức vẫn thận trọng thì cuộc tranh luận về sự phụ thuộc của Châu Âu vào Trung Quốc càng bức xúc. Tuy Đức có hơn 5,200 công ty kinh doanh tại Trung Quốc, nhưng đang chịu nhiều sức ép phải lên tiếng vì lợi ích của Châu Âu, dù Đức bị Trung Quốc trả đũa.
Nhiều người ảo tưởng Tập Cận Bình sẽ đưa Trung Quốc theo trật tự thế giới của Mỹ, nhưng đó là “một trong những tính toán chiến lược sai lầm lớn nhất thời hậu chiến tranh lạnh”. Tám năm qua, Tập theo đuổi tầm nhìn về tương lai Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bộc lộ tham vọng kiểm soát và thao túng chính trị làm ngạc nhiên giới tinh hoa Mỹ và Trung Quốc. Nay nhìn lại, người ta ngạc nhiên là Tập tìm cách khôi phục Mao để củng cố chính danh cho mình và cho Đảng, trước những cảnh báo về sự bất ổn trong 5 năm tới và lên án Tập đã biến Đảng thành “hình nhân chính trị” (How the US Misread China’s Xi: Hoping for a Globalist, It Got an Autocrat. Jeremy Page, Wall Street Journal, December 23, 2020).
Triển vọng quan hệ Mỹ-Trung và khu vực
Cách đây mấy thập kỷ, Samuel Huntington đã viết trên Foreign Affairs rằng Mỹ có khả năng tự chỉnh sửa, và những người thuộc “trường phái suy thoái” (declinists) đóng vai trò không thể thiếu “trong việc ngăn chặn những gì mà họ dự báo”. Đối với Mỹ, suy thoái là do chính trị nên đó là một sự lựa chọn, vì vậy suy thoái là sự lựa chọn chứ không phải hiện tượng. Suy thoái diễn ra trong hệ thống chính trị phân cực, với Tổng thống Dân chủ sắp nhậm chức, trước một Thượng viện vẫn do Cộng Hòa nắm đa số. Nhà báo Noah Smith (Bloomberg) cho rằng nếu đối nội Mỹ không thay đổi thì chỉ vài thập kỷ nữa “Mỹ sẽ giống như một nước đang phát triển”. (The China Challenge Can Help America Avert Decline: Why Competition Could Prove Declinists Wrong Again, Kurt Campbell and Rush Doshi, December 3, 2020).
Theo Kurt Campbell (cựu trợ lý Ngoại trưởng), chính sách Trung Quốc là tâm điểm của sự lựa chọn này. Trung Quốc càng quyết đoán thì Quốc hội và người dân càng đoàn kết xung quanh lo ngại về ý đồ lâu dài của Bắc Kinh và tác động của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) được các tiểu bang ủng hộ. Đề ra chương trình nước Mỹ không dựa trên đối nội, mà là một phần của nỗ lực duy trì khả năng cạnh tranh của Mỹ đối với Trung Quốc, có thể được lưỡng đảng ủng hộ. Theo học giả Tom Wright (Brookings), những người Cộng hòa tại Thượng viện nên tự hỏi liệu nước Mỹ có chịu nổi bốn năm ách tắc nếu tiếp tục đối đầu với Trung Quốc.
Gần đây, giáo sư David Shambaugh (George Washington University) đã viết Where Great Powers Meet: America and China in Southeast Asia, David Shambaugh, Oxford University Press, December 11, 2020. Trong cuốn sách đó, Shambaugh đã nhấn mạnh vị trí sống còn của Biển Đông trong bàn cờ địa chiến lược Mỹ-Trung. Hàng năm, khoảng 50.000 tàu thuyền qua lại trên Biển Đông, chiếm 40% thương mại và 25% vận tải dầu khí trên thế giới. Đặc biệt, Trung Quốc đã thay đổi thực địa, bồi đắp các đảo họ chiếm đóng trái phép thành “chuyện đã rồi”, và quân sự hóa các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành căn cứ quân sự.
Các nước ASEAN tự hào về phong cách riêng của mình (ASEAN Way), như nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào nội bộ của nhau, và hợp tác tự nguyện. Tuy điều đó giúp các nước ASEAN gắn kết nhưng cũng bộc lộ các điểm yếu cơ bản, làm vô hiệu hóa khả năng của ASEAN đối phó với các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa các đảo họ chiếm đóng. Giới quan sát cho rằng các diễn đàn ASEAN chỉ là nơi “tranh cãi” (talk shops) mà không có giá trị ràng buộc pháp lý.
Một số nước ASEAN bị mắc kẹt trong thế đối đầu Mỹ-Trung, đã ngả theo Bắc Kinh (như Cambodia và Philippines). Tuy xu hướng này đáng lo ngại, nhưng không nên quá lo lắng và phóng đại, vì xu hướng đó có thể đảo chiều trong thời gian tới. Một là Bắc Kinh có thể đi quá xa và ra tay quá đà, như đòi hỏi quá nhiều và bóc lột quá đáng. Hai là các nhà ngoại giao Trung Quốc quen với lối tuyên truyền một chiều, dễ vô cảm với tâm trạng của khu vực. Ba là nhiều nước Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm lý “hậu thực dân”, nên rất dễ phản ứng trước thái độ ngạo mạn và quan hệ bất đối xứng (asymmetric relationship).
Tổng giá trị thương mại giữa Mỹ và ASEAN khoảng $350 tỷ (năm 2018) trong khi tổng giá trị thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN là $587, 8 tỷ (năm 2018). Tuy con số của Trung Quốc với ASEAN lớn hơn con số của Mỹ với ASEAN, nhưng không quá xa, và ASEAN vẫn là bạn hàng lớn thứ tư của Mỹ. Trong khi đó, tổng giá trị đầu tư trực tiếp của Mỹ tại các nước ASEAN là $329 tỷ (bằng cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại).
Khi Trung Quốc bành trướng ở khu vực thì giới quan sát cho rằng quyền lực Mỹ bị suy yếu. Đó là một ngộ nhận vì ảnh hưởng kinh tế, văn hóa, an ninh của Mỹ ở khu vực còn rất lớn, xét trên nhiều mặt lớn hơn Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc được đánh giá quá cao, còn Mỹ bị đánh giá quá thấp. Tuy Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ nhưng chưa thống trị được khu vực. (The Southeast Asian Crucible: What the Region Reveals About the Future of US-Chinese Competition, David Shambaugh, Foreign Affairs, December 17, 2020).
Chính quyền Biden sẽ hàn gắn quan hệ với các nước đồng minh, nên vai trò của Nhật, Ấn độ, Úc, và Hàn Quốc tại khu vực càng quan trọng, theo tầm nhìn Indo-Pacific, nhất là với ASEAN (trong đó có Việt Nam), làm các nước ASEAN đỡ mắc kẹt trong đối đầu Mỹ-Trung. Vai trò của Nhật ngày càng quan trọng đối với kinh tế và an ninh khu vực, mặc dù Yoshihide Suga đã thay Shinzo Abe làm Thủ tướng. Trong khi Chính phủ Narendra Modi triển khai chính sách “Hành động Hướng Đông” (Act East) của Ấn Độ, thì Tổng thống Moon Jae-in thúc đẩy chính sách “Hướng Nam” (Southward Policy) của Hàn Quốc. Vì quan hệ Úc-Trung căng thẳng, nên Thủ tướng Morrison đang điều chỉnh chính sách của Úc với khu vực.
Tuy vai trò của Mỹ với các nước đồng minh là then chốt, nhưng chính thái độ của Trung Quốc cũng là một lợi thế so sánh cho Mỹ ở khu vực. Bắc Kinh càng hung hăng bắt nạt các nước khu vực bằng “ngoại giao chiến lang”, tuyên truyền thô thiển, vô cảm với tâm trạng của khu vực, và không biết lắng nghe ý kiến phê phán, sẽ góp phần làm suy giảm quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc. Có lẽ cách tốt nhất là Mỹ để mặc Trung Quốc hành động quá trớn, làm mất lòng các nước. Nếu chính quyền Biden biết lựa chọn ưu tiên, làm việc với khu vực một cách nhất quán như họ mong đợi, thì Mỹ có thể đối phó được với Trung Quốc.
Theo Kurt Campbell và Jake Sullivan (hai cố vấn đối ngoại chủ chốt của Joe Biden), mục tiêu của Washington là kiến tạo điều kiện thuận lợi để cùng tồn tại với Bắc Kinh trên bốn lĩnh vực cạnh tranh chính là quân sự, kinh tế, chính trị, và quản trị toàn cầu (global governance). Sai lầm cơ bản trước đây khi Mỹ hợp tác (engagement) với Trung Quốc là cho rằng nó sẽ làm thay đổi cơ bản hệ thống chính trị, kinh tế, và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nay Mỹ có thể mắc lại sai lầm tương tự khi cho rằng cạnh tranh có thể làm Trung Quốc thay đổi, phải đầu hàng hay sụp đổ, điều mà hợp tác trước đây đã thất bại. (Competition Without Catastrophe, Kurt Cambell and Jake Sullivan, Foreign Affairs, September/October 2019).
Trung Quốc ngày nay là một đối thủ khác hẳn với Liên Xô trước đây: đáng gờm hơn về kinh tế; tinh tế hơn về ngoại giao; linh hoạt hơn về hệ tư tưởng. Trung Quốc đã hội nhập sâu hơn với thế giới và nền kinh tế Mỹ. Chiến lược ngăn chặn của Mỹ được dựa trên dự báo là Liên Xô sẽ đến lúc sụp đổ vì nó mang theo “hạt giống suy tàn” như George Kennan đã tự tin vạch ra chiến lược ngăn chặn. Nhưng ngày nay không thể dự báo Trung Quốc như vậy vì thiếu cơ sở cho một chính sách ngăn chặn mới trên tiền đề là Trung Quốc cuối cùng sẽ sụp đổ. Mặc dù Trung Quốc đứng trước nhiều thách thức về dân số, kinh tế, và môi trường, nhưng đảng cộng sản (CCP) đã chứng tỏ năng lực đáng kể có thể thích nghi với hoàn cảnh khó khăn.
Mỹ và Trung Quốc đối đầu tại Indo-Pacific, nơi có bốn điểm nóng là Biển Đông, Biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan, và bán đảo Triều Tiên. Washington lo Trung Quốc đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương còn Bắc Kinh lo Mỹ dồn Trung Quốc vào bẫy. Đài Loan không chỉ là một điểm nóng, mà còn là một bài học thành công lớn trong lịch sử bang giao Mỹ-Trung, trong khi Biển Đông là tâm điểm của đối đầu Mỹ-Trung. Để hai siêu cường có thể chung sống hòa bình, Washington cần tăng cường răn đe và quản trị khủng hoảng, không để Bắc Kinh tự do đe dọa sử dụng vũ lực để tranh chấp chủ quyền và làm “chuyện đã rồi”. Elbridge Colby lập luận “có thể răn đe mà không cần sức mạnh để đương đầu với đối thủ đáng gờm”.
Để đảm bảo răn đe tại Indo-Pacific, Mỹ cần giảm đầu tư vào các hệ thống vũ khí đắt tiền nhưng dễ tồn thương như tàu sân bay, mà nên tăng đầu tư vào các hệ thống vũ khí bất đối xứng, được tạo ra để hạn chế sự phiêu lưu của Trung Quốc mà không quá tốn kém. Washington cần đa dạng hóa sự có mặt của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á và vùng Biển Ấn Độ Dương, mà không cần phải lập căn cứ quân sự cố định. Vì vậy, Mỹ cần xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đồng minh và đối tác có cùng chí hướng (like-minded nations).
Triển vọng quan hệ Mỹ-Việt và Biển Đông
Theo Lê Hồng Hiệp (fellow, ISEAS Yusof Ishak Institute), Mỹ và Việt Nam có lợi ích chiến lược song trùng tại Biển Đông. Trung Quốc càng hiếu chiến thì càng thúc đẩy hợp tác chiến lược Mỹ-Việt, giúp nâng cao năng lực hàng hải cho Việt Nam, phù hợp với cơ chế an ninh khu vực, theo tầm nhìn Indo-Pacific, trong khuôn khổ “Bộ tứ mở rộng”. Dù Chính quyền Biden có bỏ qua khoản thặng dư thương mại ($58 tỷ) hay không thì Biden với quan điểm thân thiện với Việt Nam, chắc sẽ có cách đề cập hợp lý hơn. (Vietnam – US Relations Under the Biden Administration, Le Hong Hiep, ISEAS, November 30, 2020).
Theo Carl Thayer, lợi ích cơ bản của Mỹ sẽ không thay đổi sau khi Joe Biden tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Mỹ thứ 46 (20/1/2021). Các thỏa thuận Hà Nội ký với Robert O’Brien là nhằm tăng cường hợp tác hàng hải và mua thiết bị quân sự, để đối phó với Trung Quốc đang gây sức ép tại Biển Đông. Quan điểm chính thống của Mỹ thời Biden là coi trọng chủ nghĩa đa phương, như một điểm khác biệt cơ bản so với Trump vốn coi nhẹ đồng minh. Biden sẽ tăng cường ủng hộ Bộ Tứ (Quad) và ý tưởng Bộ Tứ Mở rộng (Quad plus), để phối hợp tập trận không chỉ với Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, mà còn với các nước khác như Việt Nam.
Derek Grossman (RAND annalyst) tin rằng Việt Nam có thể đóng góp tốt cho Bộ Tứ Mở rộng, để đối phó với Trung Quốc. Nếu Bộ Tứ Mở rộng có một nước khu vực như Việt Nam tham gia sẽ làm suy yếu lập luận của Bắc Kinh cho rằng “Bộ Tứ” chỉ là một nhóm các nước bên ngoài khu vực muốn “ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc”. Theo Kent Calder (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Johns Hopskins), chính quyền Joe Biden sẽ thắt chặt quan hệ với Việt Nam. Sự ủng hộ rộng rãi của các nước Bộ Tứ, trong đó có các nước trong Indo-Pacific, sẽ mở rộng thêm các thỏa thuận thương mại đa phương.
Gần đây, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Đặc biệt ở Thái Bình Dương (SOCPAC) đề cập khả năng hợp tác giữa lực lượng đặc biệt của Mỹ với đặc công của Việt Nam. Bộ Chỉ huy Tiếp vận Lục quân Mỹ (USAMC) cũng muốn xây dựng một hệ thống kho tiếp liệu và dự trữ quân nhu tại Việt Nam để Mỹ có thể triển khai nhanh các hoạt động nhân đạo nhằm giúp Việt Nam đối phó với thiên tai. Nhưng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt còn hạn chế chừng nào Việt Nam vẫn duy trì nguyên tắc “ba không”. Trong một báo cáo gần đây của RAND về đối đầu Mỹ-Trung ở khu vực Indo-Pacific, Derek Grossman có năm nhận xét. (Regional responses to US-China Competition in the Indo-Pacific (Vietnam), Derek Grossman, RAND, December 2020).
Một là, tuy Mỹ duy trì ưu thế về an ninh, nhưng lại đứng sau Trung Quốc về các chỉ số kinh tế và xấp xỉ nhau về chính trị và ngoại giao, vì vậy không thuận cho Việt Nam “chọn Mỹ”. Thực ra, Việt Nam chọn cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Do đó, Washington nên để cho quan hệ với Việt Nam diễn ra một cách tự nhiên (organically), tức là để cho lãnh đạo Việt Nam tự đi đến kết luận về thái độ của Trung Quốc và sự cần thiết phải chơi với Mỹ. Nếu thúc Hà Nội phải chọn bên khi đối đầu Mỹ-Trung căng lên có thể phản tác dụng.
Hai là, giống nhiều nước khác ở khu vực, Việt Nam nghi ngờ chiến lược Indo-Pacific của Mỹ có thể bền vững với thời gian và có thể răn đe hiệu quả các hành động quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông. Mỹ nên cân nhắc làm sâu sắc thêm và thường xuyên trao đổi với các đối tác Việt Nam, ưu tiên về chất lượng hơn là số lượng, để tránh những thách thức không đồng bộ. Làm như vậy sẽ giúp thuyết phục Hà Nội rằng Washington là một cường quốc Thái Bình Dương trong tương lai có thể giúp ích Việt Nam đối phó với Trung Quốc.
Ba là, ngoài vấn đề Biển Đông, Việt Nam muốn Mỹ tập trung xem tác động của chương trình Vành đai Con đường (BRI) của Trung Quốc ở các nước láng giềng Đông Dương tác động trực tiếp đến Việt Nam thế nào. Việt Nam lo ngại rằng Campuchia và Lào đang gắn chặt với Trung Quốc, và trên thực tế làm xói mòn quan hệ đặc biệt của Việt Nam với các nước này. Mỹ nên cam kết cạnh tranh với BRI để giúp Việt Nam tránh bị bao vây bởi các nước thân Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ cần cam kết sâu hơn để chống tác động tiêu cực của BRI tới môi trường các nước này, nhất là các đập thủy điện của Trung Quốc trên sông Mekong.
Bốn là, Mỹ nên tiếp tục hợp tác với các đồng minh và đối tác để tìm kiếm sự bổ sung cho các mục tiêu cơ bản nhằm tránh lặp lại các nỗ lực ở Việt Nam. Ví dụ, Nhật, Ấn Độ, và Hàn Quốc ủng hộ các mục tiêu an ninh hàng hải của Việt Nam. Úc làm rất tốt và Canberra sẵn sàng giúp lực lượng gìn giữ hòa bình (PKO) huấn luyện quân sự chuyên nghiệp (PME) và thậm chí lực lượng đặc biệt của Việt Nam. Nhật cũng tích cực trong công tác cứu hộ (SAR) và tăng cường luật biển trong và ngoài Indo-Pacific. Úc, Tân Tây Lan, Anh có thể hỗ trợ đào tạo tiếng Anh, công tác gìn giữ hòa hòa bình, và huấn luyện quân sự chuyên nghiệp.
Năm là, trong các chuyến thăm cấp cao của Bộ Quốc phòng (MND), không quân Mỹ (USAF) đề xuất hợp tác binh chủng trở thành thường xuyên hơn để làm giảm thiểu khả năng gián đoạn trong tương lai. USAF nên tìm kiếm cơ hội để xây dựng năng lực tổ chức của VAD-AF, nhất là chức năng hỗ trợ, bao gồm bảo dưỡng, duy tu và an toàn, có nhiều khả năng đem lại kết quả lâu bền. Vì tính chất nhạy cảm của VAD-AF tại căn cứ quân sự do “chính sách quốc phòng ba không”, nên USAF có thể đề xuất hợp tác tại các địa điểm dân sự.
Tuy Biden không chỉ trích Trung Quốc nặng nề như Mike Pompeo, nhưng sẽ giữ nguyên thuế quan và trừng phạt Trung Quốc như đối thủ chính của Mỹ (rival/competitor). Biden sẽ ủng hộ Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, ASEAN, và Bộ Tứ (Quad), hàn gắn quan hệ kinh tế song phương với khu vực. Trong một hay hai năm đầu, Biden khó tham gia CPTPP và RCEP, vì phải được Thượng viện chấp thuận, và trong nhiệm kỳ đầu rất ít khả năng Mỹ thông qua Luật Quốc tế về Biển (UNCLOS). Nhưng Biden chắc có chính sách khác hẳn Trump về WHO và WTO, sẵn sàng hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề toàn cầu như COVID-19, biến đổi khí hậu, phục hồi tăng tưởng kinh tế thế giới, và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Dưới thời Biden, Mỹ không đối đầu với Trung Quốc như thời Trump, nên Việt Nam không bị ép phải chọn một bên. Tuy quan hệ Mỹ-Trung còn căng thẳng, nhưng hai bên sẽ tìm cách hợp tác, tạo cơ hội hơn là thách thức. Việt Nam có thể hợp tác với cả Trung Quốc và Mỹ, nhất là về kinh tế và thương mại. Trung Quốc không muốn Việt Nam đi theo quỹ đạo của Mỹ, nên Việt Nam có cơ hội tranh thủ kịch bản này. Chính quyền Biden có thể coi Việt Nam như “đối tác chiến lược” và ủng hộ vai trò Việt Nam lãnh đạo ASEAN. Khả năng quan hệ thân thiện giữa hai nước lớn (G2) rất khó hình thành để Mỹ hy sinh Việt Nam hay khu vực.
Trong bốn năm tới, quan hệ Mỹ-Trung chắc sẽ “không ấm quá” (intimate) cũng “không lạnh quá” (hostile). Biden sẽ không quá cứng rắn với Trung Quốc như Mike Pence và Mike Pompeo, nên có thể hợp tác về các vấn đề toàn cầu để chống dịch (WHO), phục hồi kinh tế toàn cầu (WTO), biến đổi khí hậu, và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Chính quyền Biden sẽ tiếp tục chống Trung Quốc đe dọa và bắt nạt ở Biển Đông, trong khi tăng cường đối tác chiến lược với ASEAN về các vấn đề khu vực. Vì vậy, ASEAN sẽ có vai trò quan trọng để gìn giữ hòa bình, ổn định, tăng cường hợp tác khu vực, trước những khó khăn mới.
Chính quyền Biden cần ít nhất nửa năm để ổn định, phụ thuộc nhiều vào kết quả bầu cử bổ sung hai ghế Thượng viện ở tiểu bang Georgia. Nếu đảng Cộng hòa nắm đa số Thượng viện, họ có thể phủ quyết đề cử nhân sự như Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Giám đốc Tình báo Quốc gia. Ưu tiên số một của Biden là kiểm soát đại dịch và phục hồi kinh tế. Theo luật Mỹ, Chính quyền Biden phải trình Quốc hội Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) trong vòng 150 ngày. Nếu được phê chuẩn thì Bộ Quốc phòng đề xuất Chiến lược Quốc phòng (NDS), và chiến lược Indo-Pacific. Trước khi có NDS, chính sách đối ngoại của Mỹ thường dựa trên cơ sở lâm thời (adhoc basis). Dự kiến lưỡng đảng sẽ đồng thuận một chính sách cứng rắn với Trung Quốc liên quan đến thặng dư thương mại và can thiệp vào nội bộ Mỹ.
Theo Carl Thayer, nếu đại dịch Covid-19 được kiểm soát tốt năm 2021 thì ASEAN và Trung Quốc có thể tiếp tục đàm phán về DOC và COC ở Biển Đông. Tuy quan hệ Việt-Trung về kinh tế và thương mại tương đối ổn, nhưng vẫn thường xuyên xảy ra căng thẳng trên Biển Đông. Nếu Việt Nam tiếp tục thăm dò hay khai thác dầu khí tại mỏ Lan Đỏ (lô 06-01) gần Bãi Tư Chính thì Trung Quốc chắc chắn sẽ gây căng thẳng, có thể lặp lại tình huống đối đầu như năm 2019. Năm 2020, các tàu tuần duyên Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy rối tại khu vực này, để cảnh báo Việt Nam không được khai thác. Background Brief: Factors Affecting Vietnam’s Policy on the South China Sea, Carlyle Thayer, December 13, 2020).
Hiện nay PetroVietnam đang hợp tác với Idemitsu và Teikoku (của Nhật) để khai thác hai mỏ Đại Nguyệt và Sao Vàng (lô 05-01). Các công ty Nhật mạnh hơn Repsol và Rosnneft vì (1) Họ có thể thuê tàu khảo sát và tàu khoan của Nhật; (2) Trung Quốc và Nhật đã có quan hệ làm ăn tốt trong mấy năm qua nên chắc Trung Quốc không muốn làm mất lòng Nhật; (3) Chính quyền Biden sẽ mau chóng phối hợp chính sách với Nhật ở khu vực; (4) Nhật có thể điều tàu tuần duyên hay hải quân phối hợp với tàu hải cảnh của Việt Nam để bảo vệ lô 05-01; (5) Trung Quốc phải tính đến yếu tố Nhật Bản có hiệp ước an ninh với Mỹ.
Trong khi đó, Việt Nam chắc là khâu yếu nhất, như vụ Respol đã chứng minh khi lãnh đạo Việt Nam phải xuống thang trước sức ép của Trung Quốc, phải bỏ hợp tác với Repsol (Tây Ban Nha). Hiện nay các công ty dầu khí của Nhật đã bỏ vốn và kế hoạch khai thác của họ đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt. Trong khi ExxonMobile (của Mỹ) có thể rút khỏi dự án Cá Voi Xanh trước một số khó khăn mới, tập đoàn này có dự án xây dựng nhà máy điện khí hóa lỏng có vốn đầu tư hơn $5 tỷ tại Tiên Lãng và Cát Hải (Hải phòng).
Hợp tác Mỹ-Việt về năng lượng gồm các dự án nhà máy điện chạy bằng khí hóa lỏng (LPG) nhập từ Mỹ, là một lĩnh vực hợp tác được hai nước ưu tiên thúc đẩy vì “ý nghĩa chiến lược đúp”. Nó vừa giúp giảm sức ép thặng dư thương mại (trước mắt), vừa giúp Việt Nam đảm bảo an ninh năng lượng (lâu dài) và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Nhà máy điện khí Chân Mây có vốn đầu tư $6 tỷ (tại Lăng Cô gần chân đèo Hải Vân) chỉ là bước đầu. Theo báo Năng lượng (2/12/2020) mỏ khí Kèn Bầu (lô 114) có trữ lượng 250 tỷ m3, lớn hơn cả mỏ khí Cá Voi Xanh (150 tỷ m3) nhưng chất lượng tốt hơn, và chỉ cách Đà Nẵng hơn 80 km.
Rủi ro trong thương mại Mỹ-Việt
Gần đây, Chính quyền Trump đã “gắn mác” Việt Nam “thao túng tiền tệ” (16/12) sau khi Bộ Tài chính Mỹ công bố kết luận Việt Nam (và Thuỵ Sỹ) đã vượt cả ba ngưỡng về thao túng tiền tệ bao gồm (1) các tiêu chí về can thiệp vào thị trường ngoại hối, (2) thặng dư tài khoản vãng lai và (3) thặng dư thương mại. Trước khi rời nhiệm sở (20/1), Trump dọa đánh thuế hàng may mặc và giày dép, đồ gỗ, điện tử và gia dụng của Việt Nam. Mỹ nhập khoảng $65 tỷ hàng hóa từ Việt Nam (trong 10 tháng đầu năm 2020) so với $ 66,6 tỷ (cả năm 2019).
Theo chỉ đạo của Trump, Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) đã tiến hành điều tra (từ tháng 10/2020) việc định giá tiền tệ của Việt Nam (theo điều khoản 301) và sẽ điều trần công khai (ngày 29/12) trước khi công bố kết quả (ngày 7/1/2021). Động thái này của Trump không chỉ làm khó cho Chính quyền Biden với một di sản bất lợi, mà còn làm hại cho quan hệ Mỹ-Việt vì Việt Nam là đối tác quan trọng nhất của Mỹ trong ASEAN, theo tầm nhìn Indo-Pacific và trước diễn biến ở Biển Đông. (Trump Leaves Biden Administration a Parting Gift in Currency Wars, Joseph Sullivan, Foreign Policy, December 18, 2020).
Nhưng Mỹ có trừng phạt Việt Nam hay không còn phụ thuộc vào chính quyền mới, khi Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen sẽ xem xét lại (tháng 4/2021). Tuy quan điểm của Yellen đối với các nước dùng đòn bẩy vĩ mô trong chính sách tiền tệ và tài khóa khá linh hoạt, nhưng Blinken nói (tháng 9/2020) sẽ “kiên quyết thực hiện luật lệ thương mại của Mỹ mỗi khi gian lận nước ngoài đe dọa việc làm của Mỹ”. Dù quyết định của Mỹ là “tượng trưng”, nó có thể làm lãnh đạo Hà Nội phải suy nghĩ lại xem có thể tin vào Mỹ như một đối tác chiến lược hay không và tác động đến sắp xếp nhân sự và quyết sách của Hà Nội cho 5 năm tới.
Giám đốc Amcham tại Viet Nam Adam Sitkoff nói “thao túng tiền tệ không phải là một vấn đề đối với các thành viên của chúng tôi, và bất cứ hành động tiềm ẩn nào trong những ngày cuối của chính quyền này làm tổn hại cho kinh tế Việt Nam qua trừng phạt bằng thuế quan sẽ làm tổn hại cho quan hệ đối tác gần gũi mà hai nước đã đạt được”. (Trump’s parting blow wrong-foots Biden in Vietnam, David Hutt, Asia Times, December 18, 2020).
Theo Nikkei, thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đã tăng từ US$32 tỷ (2016) lên $38,3 tỷ (2017), lên $39,4 tỷ (2018), vọt lên $55,7 tỷ (2019) và $58 tỷ (2020), còn lớn hơn cả Nhật $57 tỷ (2020). Việt Nam xếp thứ tư trong số các đối tác thương mại của Mỹ (2019), nay đã vượt qua Nhật để xếp thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Mexico (2020). Tuy Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng Việt Nam chỉ chiếm 2,7% nhập khẩu của Mỹ. Dù Việt Nam có thoát trừng phạt của Mỹ hay không, thì cuộc điện đàm giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Donald Trump (22/12) là một cố gắng để tháo gỡ.
Thực ra trong mấy năm qua (2018 và 2019), chính quyền Trump đã gây sức ép với Việt Nam, và đánh thuế nhập khẩu 456 % lên thép của Việt Nam, và gọi Việt Nam là “kẻ vi phạm tồi tệ nhất” (single worst abuser of everybody). Do hệ quả của chiến tranh thương mại, nhiều công ty nước ngoài đã rời Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam, nhưng “Việt Nam đã lợi dụng chúng ta còn tồi tệ hơn cả Trung Quốc”. (Vietnam, with larger trade surplus than Japan, draws US Ire, Tomoya Onishi, Nikkei Asian Review, December 18, 2020).
Để triển khai chiến lược “China plus One”, nhiều công ty nước ngoài đã rời Trung Quốc. Việt Nam đã thu hút được hơn $38 tỷ đầu tư FDI năm 2019, tăng 7,2% so với năm 2018. Samsung Electronics đã chuyển dây chuyền sản xuất smartphone sang Việt Nam và xuất khẩu của họ chiếm 1/4 giá trị xuất khẩu của Việt Nam (năm 2019). Ngoài Samsung, còn nhiều công ty khác có nhà máy ở Việt Nam như Canon, Toyota Motor, Honda Motor, Panasonic, LG Electronics, Hyundai Motor, TCL Technology, và Foxconn Technology, v.v.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và đại dịch Covid-19 đã gây khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu. Chủ chương tách Mỹ khỏi Trung Quốc về kinh tế và công nghệ (decoupling) là một cách đối phó bị động của Chính quyền Trump làm nhiều doanh nghiệp phải rời Trung Quốc và chuyển đến các nước Châu Á khác như Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, v.v. Tuy Việt Nam được hưởng lợi từ dòng chuyển dịch này, nhưng sẽ tiếp tục sa vào vào “cái bẫy gia công”, nếu không cơ cấu lại doanh nghiệp và đổi mới thể chế để tăng cường nội lực.
Theo các chuyên gia, thay vì trừng phạt Việt Nam “thao túng tiền tệ”, Mỹ có thể ép Việt Nam nhập thêm hàng hóa của Mỹ và ngăn chặn hàng hóa Trung Quốc tuồn qua Việt Nam để xuất sang Mỹ. Trước mắt, chắc Biden không bỏ ngay 25% thuế đánh vào gần một nửa hàng hóa từ Trung Quốc, và tiếp tục “thỏa thuận thương mại giai đoạn một”, để Trung Quốc mua thêm hàng hóa Mỹ (khoảng $200 tỷ), nhằm làm giảm thặng dư thương mại.
Lời kết
Theo thông báo chính thức, Đại hội Đảng lần thứ 13 sẽ họp từ ngày 25/1 đến 2/2/2021, để chuyển giao lãnh đạo và xác định đường lối cho 5 năm tới. Năm 2020, Việt Nam đã đạt được thành tích ấn tượng trên ba mặt chính. Một là kiểm soát được đại dịch Covid-19 (đến nay chỉ có 1.454 người lây nhiễm và 35 người chết). Hai là tiếp tục chống tham nhũng và “tự diễn biến” (có 69 cấp trưởng và cấp phó bị kỷ luật); Ba là kinh tế vẫn tăng trưởng dương (2,8%) trong khi đại dịch làm kinh tế toàn cầu suy thoái. Năm 2021 (dưới thời Biden) có hai vấn đề nổi cộm mà Việt Nam phải tháo gỡ là nhân quyền và vấn đề thao túng tiền tệ.
Lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ, Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN và tổ chức thành công các Hội nghị Cấp cao ASEAN 37, Hội nghị Cấp cao Đông Á 15 (trực tuyến), và sau đó tổ chức lễ ký trực tuyến RCEP (15/11/2020). Đây là hiệp định Thương mại lớn nhất thế giới, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng lợi bất cập hại. (Vietnam's Communists brace for next 5 years after big 2020, Tomoya Onishi, Nikkei Asian Review, December 22, 2020).
Nhưng các sự kiện quan trọng nói trên vẫn chưa đem lại đổi mới thể chế như dư luận mong đợi. Ngoài nguyên nhân nội tại, Việt Nam vẫn mắc kẹt trong thế đối đầu Mỹ-Trung ở khu vực, nên vẫn phải tiếp tục giữ thế cân bằng như tại “ngã ba đường” với trò chơi “hedging game” với hai nước lớn. Tiếp theo chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19 đã xô đẩy Việt Nam và thế giới vào nguy cơ khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ đầy kịch tính cuối năm 2020 đã trùm lên nước Mỹ và thế giới đám mây đen khủng hoảng chính trị và khủng hoảng truyền thông.
Tuy còn quá sớm để nhận định về chính sách đối ngoại của chính quyền mới khi chính sách đó còn đang hình thành, khi Joe Biden chưa chính thức tuyên thệ nhậm chức và Ngoại trưởng mới chưa được Quốc hội chấp thuận. Nhưng sẽ quá muộn nếu để đến lúc đó mới bắt đầu tìm hiểu và trao đổi về chính sách đối ngoại mới, vì tầm quan trọng của nó đối với Việt Nam và ASEAN cũng như toàn cầu, đặc biệt là khu vực Indo-Pacific. Nhưng trong khi tìm hiểu về một chính sách còn đang hình thành như một bức tranh mới, cần để ngỏ tiếp tục cập nhật thông tin mới, và đổi mới tư duy cùng hệ quy chiếu để phân tích các sự kiện.
Thích hay không, nước Mỹ và thế giới phải chuẩn bị tinh thần cho bốn năm hay tám năm với Chính quyền Joe Biden sẽ thay thế Chính quyền Donald Trump đang đi vào lịch sử như một hiện tượng lạ ngoại lệ mang tính lâm thời. Trong khi chính quyền mới ưu tiên tập trung giải quyết mấy vấn đề nội bộ cấp bách như: (1) Hệ quả nặng nề về y tế do đại dịch Covid-19; (2) Hệ quả nặng nề về kinh tế do đại dịch và chiến tranh thương mại; (3) Hệ quả nặng nề về phân cực xã hội do cuộc tranh cử tổng thống gây ra, chính sách đối ngoại của chính quyền mới liên quan đến Trung Quốc và khu vực Indo-Pacific chắc sẽ không thay đổi mấy về thực chất, ngoài cố gắng hàn gắn các quan hệ đồng minh và cam kết quốc tế của Mỹ.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam nên nhìn lại bốn năm dưới thời Donald Trump xem đã tranh thủ được cơ hội gì và đánh mất những cơ hội gì, để rút kinh nghiệm cho bốn năm hay tám năm tới dưới thời Biden. Nhìn lại 25 năm quan hệ Viêt-Mỹ sau bình thường hóa, người ta không khỏi luyến tiếc vì Việt Nam đã bỏ qua các cơ hội để tạo bước ngoặt cho đất nước bứt phá nhằm thoát khỏi ngã ba đường để đổi mới thể chế và kiến tạo động lực mới cho phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trước những thách thức và cơ hội mới, với ẩn số và biến số khó lường, người Việt Nam cần đổi mới tư duy để đối phó với tình thế mới.
N.Q.D.
Tác giả gửi BVN
Tài liệu tham khảo
Books & Reports:
1. Making U.S. Foreign Policy Work Better for the Middle Class, Jake Sullivan and others, Carnegie Endowment, September 2020
2. In the Dragon’s Shadow: Southeast Asia in the Chinese Century, Sebastian Strangio, Yale University Press, September 2020
3. The China Nightmare: The Grand Ambitions of a Decaying State, Dan Blumenthal, AEI Press, October 2020
4. Great Power Competition: Lessons from the Past, Implications for the Future, Alexander Vuving, in Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific, Alexander Vuving (edited), DKI APCSS, October 2020.
5. The Elements of the China challenge, Policy Planning Staff, Office of the Secretary of State, November 2020
6. Regional responses to US-China Competition in the Indo-Pacific – Vietnam), Derek Grossman, RAND, December 2020
7. Where Great Powers Meet: America and China in Southeast Asia, David Shambaugh, Oxford University Press, December 2020
Essays & Articles:
1. Việt Nam và đối đầu Mỹ-Trung, Nguyễn Quang Dy, NCQT, 5-23/12/ 2018
2. America First is only making the world worse. Here’s a better approach, Anthony Blinken and Robert Kagan, Washington Post, January 1, 2019
3. Competition Without Catastrophe, Kurt Cambell and Jake Sullivan, Foreign Affairs, September/October 2019
4. The Sources of Chinese Conduct, Old Arne Westad, Foreign Affairs, September/October 2019
5. Why America Must Lead Again, Joseph Biden, Foreign Affairs, March/April 2020
6. Biden and Australia, John McCarthy, Asialink Insight, 8 August 2020
7. Is Biden Preparing to Tweak the Indo-Pacific Strategy? Sebastian Strangio, Diplomat, November 20, 2020
8. Vietnam – US Relations Under the Biden Administration, Le Hong Hiep, ISEAS, November 30, 2020
9. Biden’s Vision of US-China Relations Begins to Take Shape, Situation Report, Geopolitical Monitor, December 2, 2020
10. The China Challenge Can Help America Avert Decline: Why Competition Could Prove Declinists Wrong Again, Kurt Campbell and Rush Doshi, Foreign Affairs, December 3, 2020
11. Can Joe Biden’s America be trusted, Joseph Nye, Project Syndicate, December 4, 2020
12. China Is Both Weak and Dangerous, Matthew Kroenig & Jeffrey Cimmino, Foreign Policy, December 7, 2020
13. The US Can’t Check China Alone, Odd Arne Westad, Foreign Affairs, December 10, 2020
14. Background Brief: Factors Affecting Vietnam’s Policy on the South China Sea, Carlyle Thayer, December 13, 2020
15. Francis Fukuyama on the State of Democracy in 2020 and Beyond, Francis Fukuyama, Wall Street Journal, December 15, 2020
16. Biden's Middle-class Foreign Policy Departs from Obama and Trump, Ken Moriyasu, Nikkei Asian Review, December 15, 2020
17. Blinken’s call: opportunities abound to revitalise US engagement in the Indo-Pacific, Yan Bennet and John Garrick, ASPI, December 16, 2020
18. The Southeast Asian Crucible: What the Region Reveals About the Future of US-Chinese Competition, David Shambaugh, Foreign Affairs, December 17, 2020
19. Vietnam, With Larger Trade Surplus Than Japan, Draws U.S. Ire, Tomoya Onishi, Nikkei Asian Review, December 18, 2020
20. Trump Leaves Biden Administration a Parting Gift in Currency Wars, Joseph Sullivan, Foreign Policy, December 18, 2020
21. Trump’s Parting Blow Wrong-foots Biden in Vietnam, David Hutt, Asia Times, December 19, 2020
22. A People’s War Could Be China’s Key to Winning the South China Sea, James Homes, National Interest, December 22, 2020
23. Vietnam's Communists brace for next 5 years after big 2020, Tomoya Onishi, Nikkei Asian Review, December 22, 2020
24. How the US Misread China’s Xi: Hoping for a Globalist, It Got an Autocrat. Jeremy Page, Wall Street Journal, December 23, 2020
25. Saying Goodbye to US Trade Chief Lighthizer’s Doctrine, Shawn Donnan, Bloomberg, December 23, 2020
26. Southeast Asia must prepare for the worst in 2021, Bilahari Kausikan, Nikkei Asian Review, December 27, 2020
27. Pushback on Xi’s Vision for China Spreads Beyond US, Drew Hinshaw, Sha Hua, Laurence Norman, Wall Street Journal, December 28, 2020
28. The World China Wants: How Power Will - and Won’t - Reshape Chinese Ambitions, Rana Mitter, Foreign Affairs, January/February 2021
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire