20/04/2012

Đọc “Có 500 Năm Như Thế” của Hồ Trung Tú

Phạm Thị Hòa là một trong những học sinh xuất sắc của trường PTTH Hòa Vang (Đà Nẵng) vào những năm 1977-1979. Cô tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế sau đó sang định cư tại Canada, tốt nghiệp tiến sĩ ngôn ngữ học, giáo sư ngôn ngữ tại đại học Florida (Hoa Kỳ). Cô thực hiện nhiều chuyến đi về Việt Nam để nghiên cứu ngôn ngữ. Trong chuyến đi mới nhất về VN, cô đã gặp " Có 500 năm như thế" của Hồ Trung Tú. Cô đọc ngay và trên đường bay về Mỹ, cô đã viết về cuốn sách đó, gởi đến blog nầy.
                                                               *GS TS Andrea Hoa Pham  (Phạm Thị Hòa)
Nhà văn, nhà báo H Trung Tú đã mnh dn đưa ra công trình nghiên cu t m v bn sc văn hoá ca người Qung Nam và đt Qung Nam trong mi tương quan cht ch vi văn hóa và con người Chăm pa.

Cun “Có 500 Năm Như Thế” có hai phn chính. Phn th nht viết về những chuyến di dân t bc min Trung vào Qung Nam và đến Phú Yên theo tng thi kỳ lch sử quan trọng, qua đó tìm cách giải thích điều làm nên bản sắc người Quảng Nam. Phần thứ hai viết về giọng nói đặc trưng của người Quảng Nam, một giọng nói ‘không giống ai’.

Trong c hai phn, H Trung Tú đu bc l nim say mê và tâm huyết đến ni nhiu ý đc đa anh lp li nhiu ln, như đ chc chn rng đc gi không b sót các ý quan trng đó.

Tht d thy thái đ làm vic nghiêm túc ca anh qua nhng tìm kiếm công phu gia ph ca nhiu thế h người đa phương, đt nhng câu hi thiết tha và nghiêm chnh v ci ngun ca người x Qung và tiếng nói ca h, nhiu câu trĩu nng khc khoi, như ‘Có th tiếp thu cái gì mnh đt trng không?’ đ chng minh rng người Chàm đã không b đi c li công cư hòa huyết vi người Vit. Vi công phu nghiên cu nhiu năm y, ngoài các chi tiết v ăn mc, búi tóc, hôn nhân... nếu tác gi có thể dành một phần xứng đáng nhắc đến bn sc dân tc ca người Chàm như mt tin đ, ni vi phn kết cái gì làm nên bn sc ‘nhiều khi xa lạ như một người nước ngoài, khó nhọc diễn đạt ý tưởng, thô mộc trong ứng xử, chỉ lấy sự chân thành để bù đắp, lấy sự quyết liệt để thay thế cho sự tinh tế thị thành’ của người Quảng, thì s giúp người đc hiu hơn điu tác gi mun khẳng định. Cũng vậy, tuy không phải là cuốn sử nhưng vì phân tích sự kiện theo lối biên niên, người đọc sẽ dễ theo dõi hơn nếu phần kết có kèm bảng kê các năm với các sự kiện quan trọng đề cập trong công trình, như tác giả đã làm với phần các phương ngữ nhỏ hơn từ Quảng Nam đến Phú Yên.

Cái quý ca tác phm là dám đt vn đề theo một hướng mới, không ngi tránh li mòn, không ngi ‘đy vn đ thoát ra khi con s không’ như khi bàn v ging Qung.

H Trung Tú, trong khi không phi là nhà ng hc, đã công phu tìm tòi và đưa ra nhiu nhn xét làm tin đ cho lp lun ca anh. T ch cho rng người Qung Nam mang trong mình huyết thng Chàm, tác gi đi đến kết lun mnh dn rng lý do mà ging Qung Nam khác ging các đa phương khác đến như vy là vì ban đu do người m Chàm c gng nói tiếng Vit bng ging Chàm trong các gia đình v Chàm chng Vit. Đc biệt, Hồ Trung Tú đưa ra các đợt di dân lớn khác thời điểm, và dùng ranh giới địa lý (như sông Bà Rén) và vật chất (như lũy Trường Dục) để phân vùng các phương ngữ nhỏ hơn của giọng Quảng do các nhóm di dân bị cô lập nhiều đời.

Trong khi cố gắng thuyết phc rằng giọng Quảng Nam là một hệ thống khác, là kết quả của việc người Chàm nói (phát âm) tiếng Việt, tác giả vẫn dùng giọng nói các địa phương khác làm ‘chuẩn’ để đổi chiếu. Vì nguyên âm a trong các giọng khác bị phát âm khác đi trong giọng Quảng, tác giả kết luận rằng giọng Quảng Nam không có nguyên âm a. Nếu nhìn giọng Quảng Nam như một thực thể toàn vẹn, có quy luật chặt chẽ và mang tính hệ thống, thì sẽ thấy rằng người Quảng Nam cũng có nguyên âm a như ai. Chỉ có điều nó xuất hiện ở nơi người bản ngữ không nghĩ tới, như cố giáo sư Cao Xuân Hạo đã nhắc đến trong thực nghiệm của ông, khi cho người nói giọng địa phương khác nghe người Quảng Nam phát âm chảy máu và ghi xuống, thì âm mà những người tham gia thực nghiệm “nghe thấy” và ghi xuống là chả má.* Nhưng vì sao t âm A mà biến sang âm B ch không phi C hay D, v.v... thì chng c không đến t suy lun mà thường phi qua các phn ng ni ti ca ngôn ng trong nhng hoàn cnh ngôn ng nht đnh (context-sensitive), hoc t cht liu ca các ngôn ng tham gia vào quá trình, như tác gi có gi ý khi bàn v các đt di dân mun đến min Nam trên đt Chân Lp cũ.

S hòa trn (diffusion) các yếu t ngôn ng là mt quá trình mà trong đó s đi mi được ph biến qua mt kênh giao tiếp nào đó, trong mt khong thi gian cn thiết, gia các thành viên ca mt công đng người (Rogers)**. Theo lý thuyết này, (âm thanh) ngôn ng biến đi nh vào 4 yếu t: sáng to, kênh giao tiếp, thi gian, và h thng xã hi (innovation, communication channels, time, social system). trường hp ging Qung Nam, rt có th s vic đã xy ra như thế hoc gn như thế. Th nht là s sáng to trong bt chước cách phát âm. Th hai là nhu cu giao tiếp gia nhng người Vit di dân vào đt Chàm và cùng vi người Chàm to thành kênh giao tiếp. Th ba là thi gian vài thế kỷ ấy đ dài cho vic đnh hình yếu t mi trong giao tiếp. Và cui cùng h thng xã hi cn thiết đ đnh hình yếu t mi là h thng trong đó người Vit sng cng cư vi người Chàm trên di đt mi. Nhưng đây cũng ch là suy lun đ khi đu, như anh công nhn. Cn tìm ra mi liên quan gia các yếu t ngôn ng hoc các yếu t ngoài ngôn ng đã thúc đy giọng Quảng thay đổi, ‘đi xa’ đến thế so với giọng ban đầu của những người Việt di dân, để cho ra một hệ thống giọng nói như hiện nay, mà không phải là một hệ thống khác. Cái quan tâm trước hết của các nhà ngữ học không phải là vì sao nó thay đổi, mà thay đổi như thế nào. Cho nên có những người như Hồ Trung Tú cố gắng tìm giải đáp cho câu hỏi ‘vì sao’ là đóng góp đáng quý.

Chưa biết điều khẳng định ‘Mỹ Sơn chính là di sản tổ tiên ta để lại’ đúng đến đâu nhưng chắc chắn làm người đọc cảm động và cảm phục. “Có 500 Năm Như Thế” là một bằng chứng đẹp về cái thao thức bất tận trong việc đi tìm sự thật, bằng một thái độ viết tâm huyết, nghiêm túc, được nâng đỡ bởi một tâm hồn lãng mạn, bay bổng.

                                                                          Andrea Hòa Phạm

* Cao Xuân Hạo. 1998. Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam. Trong Tiếng Việt Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, tr. 128-136. TP Hồ Chí Minh: NXB Giáo Dục.

**Rogers, Everett M. 1995. Diffusion of Innovations. 4th ed. New York: Free Press (MacMillan).

7 commentaires:

  1. Rất vui khi được đọc một bài viết hay của một cô học trò cũ xinh đẹp và thông minh của trường cấp 3 Hòa Vang thuở nào.
    Nguyễn Văn Gia

    RépondreSupprimer
    Réponses
    1. Anh Gia ơi !
      Đã hơn ba mươi bốn năm, một thời Hòa Vang đã qua rất lâu rồi hỉ...Đến hôm nay cũng còn thấy "Rất vui khi được đọc.." Vậy là tốt lắm rùi, chỉ có đều " ...sắp sửa hoàng hôn ? " mới ngộ ra và:
      "Cám ơn chút nắng hanh vàng cuối phố
      Hoa dại ven sông chợt nở trái mùa
      Để ta thấy được mình còn có lý
      Ngã ba đường vẫn đứng đó lơ ngơ ... "

      Supprimer
  2. Tộc Ông là người Chàm đó .
    Ông Ích Khiêm cũng là người Chàm .

    RépondreSupprimer
  3. Tôi theo dõi và đã đọc hầu hết những bài review sách này, phần lớn đều là những cảm nhận của những người đọc nhưng chưa thấy ai chuyên môn sâu, có học vị uy tín ngoài trừ bài viết này của TS Andrea. Và ngay ở nước ngoài, tôi cũng mong được đọc bài điểm của các ông Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng, Bình Nguyên Lộc...

    RépondreSupprimer
  4. Phong cách khoa bảng, lập luận hệ thống, từ ngữ đẹp và tấm lòng bàng bạc quê hương trong bài viết của TS Hòa.

    RépondreSupprimer
  5. cuốn sách 'có 500 năm như thế' của hồ trung tú tôi đã mua đọc ngay từ đợt ra mắt sách đầu tiên và hễ có dịp là mua tặng hoặc giới thiệu cho đến nay tới rất nhiều người. ngay cả cuốn tôi đọc bây giờ cũng đã được tặng cho một tu sĩ người quảng nam ở sài gòn. nhìn tổng thể, đây là một tác phẩm lai giữa văn học và khoa học lịch sử, mà trong đó hai lãnh vực này phối hợp với nhau khá nhuần nhuyễn để cho người đọc ko chuyên về lịch sử thì há hốc mồm kinh ngạc với những kết luận 'khoa học' về nguồn gốc tiếng quảng, về tổ tiên của người quảng và rộng hơn là nam trung bộ. còn với người đọc chuyên về lịch sử thì thấy nên nhìn nhận cuốn sách này như là một thành công về mặt ý tưởng và dàn dựng một kịch bản cho các ý tưởng (ý tưởng là điều rất cần cho khoa học).tất nhiên nếu thành công về mặt này thì 'có 500 năm như thế' có thể xem là một tác phẩm văn học với một hình thức sáng tác mới mẻ hoàn toàn (chắc chỉ có tạ chí đại trường là tay bút có tác phẩm với hình thức tương tự)
    . nhìn nhận 'có 500 năm như thế' như một tác phẩm văn học sẽ cho người đọc một đánh giá có phần 'thông thoáng' hơn.
    trước hết khen cho tác giả một cây bút khá uyên bác, lượng kiến thức mà tác giả đem dùng cho cuốn sách là khá lớn, thuộc nhiều lãnh vực: ngôn ngữ, lịch sử, địa lý...với khá nhiều phương pháp tư duy như so sánh đối chiếu, suy luận, quy nạp...một người phải yêu quê hương xứ quảng tha thiết và trăn trở rất lâu về những điều kỳ diệu trên quê hương đậm đặc dấu vết tiền nhân, mới tập hợp được một lượng lớn tư liệu và xử lý các dữ liệu theo hướng giả thiết của mình để cuối cùng tạo nên một bức tranh tổng thể tương đối 'hoàn chỉnh' các lỗ hổng được khéo léo vá lại bằng một câu quen thuộc : đây chỉ là một giả thiết nếu muốn khai mở vấn đề (theo kiểu bổ đề chưa chứng minh của toán học).ở đây nhân tiện cũng nói thêm về một trường phái viết lách của các cây bút được học hành hay có ảnh hưởng lớn từ gia đình là những người đã học hành kỹ lưỡng ở miền nam trước 75: đó là phương pháp luận khoa học rõ ràng, nghiêm túc, tôn trọng sự thực và tổng thể bài viết có thể xem như chứng minh một bài toán hình học với các giả thiết, định lý và kết luận, nên từ đó dễ dàng tìm thấy các lỗ hổng trong bài viết.( tôi chỉ cần đọc một bài viết nhỏ và có thể biết ngay rằng cây bút này thuộc trường phái nào, tất nhiên với một cây bút miền nam chính tông, đảng ko có chỗ đứng).quay trở lại tác phẩm của hồ trung tú có thể thấy rất nhiều lỗ hổng như vậy, từ một bức tranh của william alexander, anh suy diễn ra rất nhiều điều, trong đó anh tú đã để óc tưởng tượng của mình bay bổng đến độ phán đoán ra vị trí thực sự của những người trong bức tranh cách đây mấy trăm năm. hoặc đoạn nói về cái quần 'trật bù lươn' của một số cư dân xưa vùng đại lộc, tác giả mạnh dạn cho đó là biến thể cái ka ma của người chăm. hoặc tác giả cho rằng phân giới của đất chiêm có thể là sông bà rén chứ ko phải sông câu lâu để giải thích về giọng quảng của người ở duy xuyên trà kiệu...tất cả các suy đoán đó vẫn chưa là kết luận chừng nào chưa có các bằng chứng khảo cổ hay ít nhất là các bản văn cổ còn lưu với ngày tháng rõ ràng minh bạch. (cái này còn quá thiếu với lịch sử nước nhà)
    bởi vì phải xử lý một loạt các giả thiết, mà mỗi giả thiết có thể ngang tầm với một luận văn tiến sĩ, nên cảm thông cho tác giả và quí trọng anh về cái tình cảm và cái tâm cho quê hương. và cũng nói thêm là bản thân tôi rất cảm phục sự thông minh của tác giả khi 'xử lý' một loạt các vấn đề lớn như vậy để cho ra mắt bạn đọc một cuốn sách rất đáng nên có trong tủ sách của mỗi gia đình. tôi thực sự tự hào về xứ quảng khi có một trí thức như anh.

    RépondreSupprimer
  6. Thay Chenh van con uu ai luyen luu nguoi yeu xua nhieu qua. happy happy to your love

    RépondreSupprimer