Tống văn Công
A-ĐẤT NƯỚC ĐANG LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN .
Hội nghị lần thứ 8 của BCH TƯ Đảng cộng sản VN sẽ kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết ĐH11 và các nghị quyết TƯ, trên cơ sở đó sẽ quyết định
các việc trọng đại của đất nước . Đối chiếu thực tế cuộc sống đang
diễn ra so với các Nghị quyết của Đảng, xin gửi tới Hội nghị bài viết
với nỗi niềm trăn trở.
I – KINH TẾ SUY SỤP, DO “YẾU KÉM NỘi TẠI, CƠ CẤU LẠC HẬU”.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) viết : “ Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển .Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.”
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
viết: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Để đạt mục tiêu đó, phải tăng trưởng GDP hàng năm
bình quân từ 7 đến 8% ; GDP năm 2020 bằng 2,2 lần so với năm 2010; GDP
bình quân đầu người khoảng 3000 USD.Tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm
85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao
khoảng 45% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo khoảng 40%
trong sản xuất công nghiệp.”
Ngay năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết
ĐH11, nền kinh tế Việt Nam vấp phải khó khăn lớn nhất sau 20 năm, kể từ
năm 1991. Mục tiêu tăng trưởng đề ra 7,5% chỉ đạt được 5,8%; Quốc hội
đề ra mức lạm phát 7%, thực tế lên tới 19%; hơn 48000 doanh nghiệp phá
sản; Các tập đoàn kinh tế nhà nước được kỳ vọng là “quả đấm thép” của
nền kinh tế thua lỗ nặng nhất, chỉ riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ
USD; Thị trường bất động sản đóng băng; Hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen;
Nợ xấu chiếm 15% tổng tín dụng; nhập siêu10 tỉ USD; Khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế sút giảm nghiêm trọng vì tham nhũng, lãng phí làm cho
chỉ số ICOR ( số đồng vốn bỏ ra để thu 1 đồng lãi) tăng vọt xấp xỉ 2 con
số ( chỉ số ICOR của các nước trong vùng chỉ từ 3 đến 4). Kinh tế nhà
nước là gánh nặng của nhân dân, nhận vào 65% tổng tín dụng để làm ra 28%
tổng sản phẩm!
Cuối năm 2011, Đảng và Chính phủ đề ra
chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế để cứu vãn: Tái cấu trúc các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước; tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và hệ thống
thể chế tài chính, giải quyết nợ xấu; tái cấu trúc đầu tư công. Diễn
đàn Mùa thu 2012 ở TP Vũng Tàu nhận định: “Những nguy cơ mang tính cơ
cấu và hệ thống đang đe dọa nền kinh tế”. Viện trưởng Viện kinh tế Việt
Nam Trần Đình Thiên cho rằng “Cần phải đổi mới về cải cách đất đai,tiếp
theo là cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo nghĩa thị trường; sau đó
là cải cách ngân hàng Nhà nước một cách quyết liệt; tất cả phải công
khai, minh bạch”. Cam kết với WTO phát triển nền kinh tế thị trường ,
nhưng thực tế dùng nhiều biện pháp hành chính và ngắn hạn, nhiều loại
giá cơ bản phi thị trường. Các nhóm lợi ích bất chính đang là lực cản
của tái cơ cấu nền kinh tế, chi phối chính sách ngày càng trắng trợn.
Diễn đàn kinh tế mua thu năm 2013, ở Huế, Viện trưởng Trần Đình Thiên mở
đầu tham luận, cho rằng “Kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi,
nhưng Việt Nam không nằm trong quỹ đạo đó.Những “điểm đen” như nợ xấu,
sở hữu chéo trong các ngân hàng vẫn còn nguyên, tái cơ cấu kinh tế nhà
nước vẫn nằm trên giấy. Kinh tế vẫn trong lộ trình “xuống đáy” và nằm
bẹp ở đấy”. Giáo sư Võ Đại Lược đề nghị bán các doanh nghiệp nhà nước
như bia,rượu, nước giải khát, đất đai của Tổng công ty Thương mại Hà
Nội… lấy tiền làm việc có ích.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng
mục tiêu đưa Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại không thể nào đạt được.Cho đến nay Việt Nam chỉ có
nền công nghiệp gia công và là bãi thải công nghiệp của các nước.
Hội nghị TƯ 3 ( 10-10-2011)nhận định:
“Do yếu kém nội tại của nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu
kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ kéo dài….” Ngày 5-9 2013, tại
diễn đàn Việt Nam- Nhật Bản, ông Bùi Quang Vinh, Ủy viên TƯ Đảng, Bộ
trưởng Bộ KH-ĐT phát biểu:”Kinh tế Việt Nam mấy năm qua gặp phải những
khó khăn do tác động bên ngoài và chịu ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế
thế giới, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những yếu tố của
kết cấu bên trong, những yếu kém của nội bộ”. Đúng vậy! Cũng trong
tình hình kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế của các nước trong khu
vực vẫn phát triển, nước lớn như Trung Quốc GDP năm 2011 là 9,2 %, năm
2012 là 7,8%; nước nhỏ như Campuchia năm 2011 GDP là 7,5%, năm 2012 là
7%, năm 2013 dự kiến 7,6%.).
Cuối năm 2013, vốn đầu tư nước ngoài có
tăng lên so với 2 năm trước, đã đem lại nhiều hy vọng cải thiện cho
kinh tế Việt Nam, tuy nhiên vấn đề chính như ông Bùi Quang Vinh nói là
“những yếu tố kết cấu bên trong, những yếu kém nội bộ” vẫn chưa được
giải quyết ! “Yếu tố và kết cấu” đó là gì ? Phải chăng đó là điều mà
nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị: Trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho
nông dân và tư nhân hóa, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ?
2- GIAI CÂP CÔNG NHÂN SỐNG DƯỚI MỨC SỐNG TÔÍ THIỂU 40% !
“Cương lĩnh” viết :”Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng ; là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.”( văn kiện ĐH 11,
trang 80).
Báo cáo chính trị:”Gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp” (văn kiện, trang 228).
Nghị quyết 20 /NQ-TƯ về xây dựng giai cấp công nhân viết :” Xử
lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài
hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động , Nhà nước và toàn xã
hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân.”
Hơn 20 năm qua,giai cấp công nhân đã
phát triển nhanh chóng. Họ là những nông dân nghèo khó nhất rời đồng
ruộng đến các khu kinh tế công nghiệp tìm việc. Theo số liệu của Tổng
LĐLĐVN năm 2013, có 15 triệu người lao động làm công ăn lương, có 7,9
triệu đoàn viên công đoàn, ở khu vực vốn đầu tư nước ngoài có hơn 1,7
triệu người. 20 năm qua có 3 lần cải cách chế độ tiền lương, nhưng
lương tối thiểu cho đến nay vẫn chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu
của người lao động. Luật Lao động cho doanh nghiệp được phép buộc công
nhân làm thêm 300 giờ/năm. Các chủ doanh nghiệp căn cứ mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định để trả cho công nhân. Do đó hình ảnh của giai
cấp công nhân hiện nay, theo báo cáo của Viện nghiên cứu Công nhân,
Công đoàn: Có 94% công nhân phải làm thêm ca, thêm giờ mà vẫn không đủ
sống; Có 26,5 % nam công nhân và 31,8 % nữ công nhân suy dinh dưỡng; Có
19,2 % công nhân thiếu máu; 70% thiếu iốt; Có 20% công nhân bỏ một bữa
ăn trong ngày. Công nhân coi được làm thêm giờ như một ân huệ. Nhiều ông
chủ doanh nghiệp phạt công nhân bằng hình thức không cho làm thêm giờ!
( Ông Thee Hong Bae ở Công ty Yujin Vina TP HCM cắt tăng ca vĩnh viễn
đối với công nhân Dương văn Tam để phạt anh về “tội” sau đình công, mọi
người đã đi làm mà 2 ngày sau anh mới có mặt! . Cán bộ quản lý doanh
nghiệp thường kiếm cớ để phạt hoặc làm nhục công nhân : Ngày 20-5-2013, ở
Công ty Yujin Vina (TP HCM) anh Hậu lúc tan ca không xếp vào hàng, đã
bị ông quản lý Chu bóp miệng, nắm cổ áo lôi đi ; Tháng 7- 2013, anh HVT
ở Prex – Vinh ( Nghệ An) bị cán bộ quản lý ném phế phẩm vào mặt và đè
đầu dúi vào máy; Ngày 18-7-2013 các chị Đặng Thiên Trang, Chu thị Vân
nghỉ phép quá 1 ngày đã bị quản lý Công ty dệt may Thái Dương (TP HCM)
phạt trừ lương và phụ cấp 700. 000 đồng !…
Từ năm 1995 đến nay đã xảy ra hơn 5000
cuộc đình công, có những cuộc huy động hơn 10.000 công nhân ( như ở
Công ty Keyhing Toys Đà nẵng năm 2005, Công ty Pouchen Biên Hòa năm
2010). Tất cả các cuộc đình công đều bị coi là bất hợp pháp, vì không có
công đoàn lãnh đạo. Những người được công nhân đình công cử làm đại
diện đối thoại với chủ, sau khi ổng định đều bị sa thải mà không được
các cơ quan chức năng bảo vệ! Cách đây 5 năm, Viện Khoa học Xã hội thực
hiện cuộc điều tra tại 24 doanh nghiệp, cho thấy có 84% người lao động
không thấy công đoàn có vai trò giải quyết tranh chấp. Báo cáo của BCH
Tổng LĐLĐ VN tại Đại hội 11 Công đoàn Việt Nam nhận khuyết điểm:” Công
đoàn cơ sở chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật,
tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công
còn bị lúng túng.”
Chỉ cần đọc bài “Công nhân đồng loạt
đình công đòi quyền lợi” trên báo Công An Nghệ An ngày 20-7-2013 cũng
đã có thể hình dung tình cảnh khốn cùng, bị chà đạp nhân phẩm của giai
cấp công nhân hiện nay. Bài báo kể trong một ngày tỉnh Nghệ An có 2
cuộc đình công ở Công ty Prex Vinh và Công ty May Hanosimex. Bài báo kể
một số chi tiết: -Bắt làm thêm giờ mà trả lương rất bèo – Tổng thu nhập
trung bình là 1650000 đồng/ tháng- Nhiều công nhân bị bị ném phế phẩm
vào mặt. Có người “yêu cầu quản lý không nên có thái độ như vậy” lập tức
bị đuổi việc – Công nhân bấm thẻ chấm công sớm 30 giây, bị trừ cả ngày
công – 1900/ 2500 công nhân đã vào công đoàn, nhưng gửi kiến nghị lên,
công đoàn không trả lời; Chủ doanh nghiệp yêu cầu công nhân đình công cử
đại diện đối thoại, nhưng cuộc đình công hồi năm ngoái, cả 8 người
được cử làm đại diện đối thoại với chủ sau đó đều bị đuổi việc, cho nên
lần này không ai dám nhận làm đại diện!
Bộ LĐ, TB& XH kiên trì quan điểm
“Nếu điều chỉnh lương tối thiểu đảm bảo ngay nhu cầu tối thiểu thì rất
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may, da giày gia công
sẽ phá sản.” Quan điểm này vừa trái với các nghị quyết nói trên của
Đảng, vừa sai với thực tế ( Thời gian qua có nhiều cuộc đình công ở các
doanh nghiệp dệt may, da giày gia công đều được chủ doanh nghiệp giải
quyết yêu sách tiền lương mà họ không hề bị phá sản) và trái với lý
luận:” Giá trị sử dụng của thứ hàng hóa đặc biệt sức lao động là ở chỗ
nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Do đó
người sử dụng lao động phải trả mức lương tối thiểu không chỉ đủ nuôi
sống bản thân người lao động mà còn phải có dư để nuôi sống gia đình anh
ta, đảm bảo tái sản xuất sức lao động” (Marx, Engels T23, trang 252). Ý
kiến chưa thể tăng lương tối thiểu đủ mức sông tối thiểu giống như đại
diện nhóm lợi ích của các ông chủ tư bản hoang dã .Thế mà tại sao họ
không bị khiển trách ? Ngành dệt may,da giày gia công còn được cho ưu
tiên làm thêm giờ!
Từ năm 1930 cho đến trước Đổi mới, những
người cộng sản Việt Nam luôn luôn lấy khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ để
vận động công nhân. Tại sao ngày nay, sau 28 năm Đổi mới, trong khi Tổ
chức Lao động quốc tế đòi ngày làm 7 giờ, tuần làm 5 ngày, tức 35
giờ/tuần thì Nhà nước Việt Nam lại có chính sách bảo trợ chủ doanh
nghiệp buộc công nhân làm thêm 300 giờ, nhưng thực tế còn cao hơn
nhiều, với đồng lương chết đói? Tại sao chúng ta thừa lao động, nhất là
lao động giản đơn mà không buộc các doanh nghiệp dệt may, da giày gia
công là những ngành sử dụng lao động giản đơn giá rẻ, nếu thiếu nhân
công thì phải tuyển dụng thêm , cấm họ buộc công nhân làm thêm giờ và
đòi họ phải trả lương theo hợp đồng thỏa thuận với người lao động ?
3 – NÔNG DÂN KHIẾU KIỆN, TỰ TỬ VÀ BẮT ĐẦU DÙNG SÚNG!
Cương lĩnh viết:”Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.”
Phương hướng nhiệm vụ 5 năm (2011-2015):
“Phát triển nông nghiệp toàn diện hiệu quả, bền vững theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.”
Nghị quyết 26/NQ-TƯ (về nông nghiệp, nông dân, nông thôn) mục tiêu:”Không
ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn, hài
hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng
còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng
vai trò làm chủ nông thôn mới…”
Sau Đổi mới, nông dân đã đưa đất nước
từ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới. Nhưng có
nghịch lý là từ đó đến nay cuộc sống của nông dân ngày càng khốn khó.
Đặc biệt là nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất
nước, chưa bao giờ sống khổ như bây giờ : Được mùa rớt giá, càng làm
càng lỗ; mỗi năm buộc phải đóng từ 30 đến 40 loại phí; học vấn thấp
nhất; nhắm mắt xếp hàng cho người Đài Loan, Hàn Quốc chọn vợ để cứu gia
đình; sang Campuchia bán thân; đóng phí rất nặng để đi xuất khẩu lao
động, bị đánh đập, cưỡng hiếp. Mới đây, báo Tuổi Trẻ đăng tình cảnh lao
động Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở Malaysia phải trốn chui trốn nhũi vô
cùng thê thảm. Nhiều năm qua, nông dân bị thu hồi đất không được đền
bù thỏa đáng, phải cơm đùm cơm nắm đi khiếu kiện lên quận, rồi lên tỉnh,
lên Trung ương, nằm chờ chực ngoài vườn hoa, trên vĩa hè và bị đuổi
đánh tàn tệ.
Cuối cùng tức nước vỡ bờ, lúc đầu
là tự thiêu, tự tử để tỏ sự phẫn uất một cách bất lực, sau đó là nổ súng
hoa cải để cảnh báo nỗi bất bình, nay thì nổ súng sát thương. Những
phát súng của Đặng Ngọc Viết không phải nhằm bắn vào người có oán thù
với riêng anh mà có ý nghĩa biểu tượng bắn vào chế độ ruộng đất bất
công, phi lý, chống lại lợi ích giai cấp nông dân của anh.
Tại sao những mục tiêu cao đẹp từ các
nghị quyết của Đảng không thể trở thành hiện thực mà ngược lại? Những
nhà khoa học và cán bộ quản lý gắn bó với nông dân đã phát hiện những
nguyên nhân chủ yếu nhưng không được lắng nghe. Gần 20 năm , giáo sư Võ Tòng Xuân nhiều lần lặp đi lặp lại câu hỏi “Bao giờ nông dân mới giàu?”
Và ông trả lời, nông dân không thể thoát nghèo, bởi đầu ra của hạt lúa
bị Hiệp hội lương thực độc quyền thao túng . Giáo sư Đào Thế Tuấn
nói:”Nghịch cảnh thay nông dân từng là quân chủ lực của cách mạng giải
phóng dân tộc, cũng là người lặng lẽ âm thầm khởi xướng công cuộc đổi mới,
nhưng lại ít được hưởng lợi nhất sau đổi mới!”; và “ Nông dân thiếu chủ
quyền về đất đai, mất đất mà không có ai bênh vực”; và “Đáng lo thay,
nông dân là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội, không có quyền mặc cả trên thị trường không được tham gia quyết định giá cả nông sản, vì thiếu nghiệp đoàn nông dân”.( Báo Nông Nghiệp Việt Nam xuân Tân Mão). Nguyên chủ tịch tỉnh An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị phân tích nguyên nhân các chỉ tiêu không đạt được, đã cho rằng:”
Nói những điều to tát như tạo nền kinh tế bền vững, tái cấu trúc, tăng
GDP… không bằng có những chủ trương, quyết sách, hành động sát thực tế
để nông dân có đất canh tác, có đời sống ấm no, sung túc bền vững”. Ông phân tích ”Thời
kháng chiến chúng tôi, những cán bộ, đảng viên cùng với nông dân có
chung một lợi ích. Sau khi cầm quyền, chúng tôi với nông dân bắt đầu có
sự phân chia, “tuy một mà hai”. Sự phân chia dễ thấy là chúng tôi – tức
chính quyền bắt đầu ra lệnh, ngay như tổ chức Đảng, các đoàn thể cũng ra
lệnh được. Nông dân từ chỗ là chủ sở hữu đất, chủ sở hữu
ruộng, sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đất là sở hữu nhà nước… Có
độc lập rôì bỗng dưng mất hết hai cái quyền sống còn là quyền sở hữu
ruộng đất và quyền sản xuất… Rồi họ dắt díu nhau lên Sài Gòn, Bình Dương
làm công nhân, lại tiếp tục bơ vơ giữa các khu công nghiệp, vắt sức với
đồng lương bèo bọt…”. Mang nỗi niềm của người mắc nợ nông dân,
ông đi Đài Loan, Malaysia, Thái Lan để quan sát và ngạc nhiên kêu
lên:”Nhìn cách họ tổ chức sản xuất nông nghiệp mà phát thèm: Nhà nước,
nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học phối hợp rất chặt chẽ, trong đó
nhà nông ở vị trí trung tâm, được nhà nước và doanh nghiệp lo cho từ
sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Thái Lan có công ty tổ chức sản xuất
nông nghiệp lo cho cả đầu vào cả đầu ra. Chính phủ hỗ trợ chính sách rất
rõ ràng”.(báo Pháp Luật TP HCM xuân Tân Mão). Tiến sĩ Đặng Kim Sơn Viện trưởng Viện nghiên cứu nông nghiệp cho rằng “Nông dân, nông thôn bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”. Mới đây, trên báo Nông nghiệp Việt Nam, nhà văn của nông dân Nguyễn Khắc Trường, tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma” nổi tiếng, có bài viết về tình trạng nông dân ngày nay. Bài viết có những điểm rất đáng quan tâm: Nông
dân xưa chất phác nền nếp lắm. Làng xóm xưa thanh bình lắm. Nông thôn
bây giờ chẳng những nghèo về vật chất mà còn nghèo tinh thần. Nay không
chỉ có trộm cướp mà còn có người nghiện hút, tình làng
nghĩa xóm phai nhạt. Cái gốc của nông dân là ruộng đất mà giờ người ta
không còn yêu quý đất nữa! ( thực ra họ không còn yêu đất chỉ vì
đất không còn là của họ nữa mà là của “toàn dân” !). Ông so sánh với
vài nước xung quanh và cho rằng nông dân Trung Quốc khổ hơn ta, nhà cửa
họ lụp xụp hơn, mặt họ sầu não hơn. Nhưng nông dân Thái Lan thì sướng
hơn, giàu có hơn nông dân ta. Ông kết luận:”Nói theo nghĩa nào đó nông
dân chưa thực sự bước ra khỏi vũng bùn!”
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi đã tự hào viết câu thơ : “ Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!” Đất nước của hơn 90% nông dân ngày ấy sáng lòa, bởi họ đã rũ bùn đứng dậy. Cớ sao sau 68 năm họ phải trở lại vũng bùn ?!
4 – KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO TĂNG NHANH THỨ 2 CHÂU Á !
Báo cáo chính trị ĐH 11: “Xây
dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng,văn minh.” Và ”
Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo,
giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.”
Tuy nhiên, sau Đại hội 11 khoảng cách
giàu nghèo đã tăng tốc. Hai giai cấp lớn của xã hội là công nhân và
nông dân chính là nguồn bổ sung cho số người nghèo đang phình to này.Theo Tổng
cục Thông kê năm 2008 khoảng cách giàu nghèo là 8,9 lần; năm 2009 tăng
lên 9,2 lần. Gần đây báo chí phát hiện nhiều chuyện “lương khủng” ở các
tập đoàn, công ty nhà nước. Vụ lương khủng ở TP HCM khoảng cách thu nhập
của cán bộ lãnh đạo và công nhân hơn 200 lần. Dư luận cho rằng vụ này
chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Trong những năm kinh tế đất nước sa sút,
số người siêu giàu (có tài sản 30 triệu USD) vẫn cứ tăng nhanh: Năm
2010 có 100 người; năm 2011 tăng lên 170 người nhanh thứ hai châu Á.
Ngày 15-9-2013, nhiều tờ báo đưa tin: Công ty tư vấn tài sản Wealth-X và
Ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết :” Mặc cho nền kinh tế Việt Nam đang lâm
vào khó khăn, số người siêu giàu của nước này vẫn tăng gần 15% so với
năm trước, từ 170 lên 195 người với tổng tài sản 20 tỉ USD. Trong khi đó
Việt Nam có khoảng 8,1 triệu dân nghèo đói phải tìm đến cái chết để
thoát khổ đau.”
Xin nêu 2 trường hợp người nghèo đi tìm cái chết mà nguồn tin trên đã nói đến:
Tháng 4- 2012, chị Lê thị Ngọc Nhãn
ở khóm 2, phường 1, TP Cà Mau, trước khi tự tử đã gửi cho Trung tá Diện
bức thư, có đoạn:” Sau khi cháu chết rồi, xin chú giúp cho các con của
cháu được vào cô nhi viện. Cháu xin đội ơn chú đời đời”.
Tháng 5-2013, chị Nguyễn thị Mỹ Nhân
, 48 tuổi, ở xã An Xuyên, TP Cà Mau, trước khi treo cổ, đã viết bức
thư gửi chính quyền: “Xin các cấp chính quyền thấu hiểu hoàn cảnh không
có lối thoát của gia đình chúng tôi hiện nay, đồng ý cấp sổ hộ nghèo cho
chồng con tôi có thể sống những ngày còn lại”.
Trong bài nói về xây dựng Đảng hồi tháng 2-2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói:” Bây
giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có người giàu lên rất
nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ
giống người nghèo không? Mai kia Đảng này là Đảng của ai? Có còn giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”.
Thưa Tổng bí thư, cứ nhìn tình cảnh của
hai giai cấp công nhân và nông dân và các chính sách làm cho họ bần
cùng, chắc không khó tìm câu trả lời!
5- ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI BĂNG HOẠI CHƯA TỪNG CÓ.
ĐH 11quyết định:”Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no tiến bộ,hạnh phúc;con
người phát triển toàn diện về trí tuệ,đạo đức,thể chất, năng lực sáng
tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”(văn kiện trang 105). Tuy nhiên
3 năm qua đạo đức tiếp tục băng hoại ngày càng dữ dội! Hàng ngày báo
đưa tin chém giết, trộm cướp, cưỡng hiếp xảy ra khắp mọi nơi. Người ta
chém giết nhau chỉ vì những lý do lãng xẹt. Đáng lo nhất là tình trạng
con cháu đánh đập, chém giết cha mẹ ông bà, anh em, vợ chồng giết nhau.
“Đinh tặc” rải đinh đánh bẫy người đi xe gắn máy, để vá xe, bán lốp,vỏ
xe với giá cắt cổ. Thanh, thiếu niên ném đá lên tàu hỏa, lên ô tô như
thú vui. Mới đây một nhà phê bình có bài viết tựa đề “Người Việt hung
hãn”. Có những hiện tượng bất thường đang nãy sinh: Người ta “tự xử”,
bởi không còn tin khả năng quản lý của chính quyền, cũng không tin công
lý từ tòa án! Bắt được kẻ trộm chó, cả xóm ra tay tự xử bằng gậy gộc.
Mới đây, xã Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang vừa có “sáng
kiến” lập rào làng, làm bốn cổng để chống trộm!
Nhà văn Nguyễn Khải người đầu tiên phát
hiện tệ nói dối đang phát triển trong xã hội. Từ đó đến nay tình trạng
nói dối bùng lên như một đại dịch, lan tràn từ trong Đảng tới các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, các đoàn thể, nay nhiễm vào trẻ con.
Tại diễn đàn kinh tế mùa Thu đang diễn ra ở Huế, nhiều tham luận nói về
tệ báo cáo láo khiến không thể biết đúng “bệnh”: nợ xấu bao nhiêu,thất
nghiệp bao nhiêu, GDP của các tỉnh có tăng thực vậy không. Một trung tâm
xã hội học vừa công bố kết quả điều tra: Trẻ học cấp 1 có tỉ lệ nói dối
là 22%; trẻ ở cấp 2 có tỉ lệ nói dối 50%; cấp 3 là 64%; sinh viên đại
học là 80%! Có thể hình dung được, đội ngũ cán bộ tương lai sẽ vượt xa
cha anh về tài nói dối !
Có người giải thích đây là mặt trái của
cơ chế thị trường. Nên nhớ rằng, trước khi thực hiện cải tạo xã hội chủ
nghĩa, đất nước ta đã từng sống trong cơ chế thị trường.
Dân tộc ta nổi tiếng hiền hòa. Ông cha ta từng “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn”, “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Thời
hai cuộc kháng chiến, nhà nhà đêm không cài cửa, ra ngõ gặp anh hùng.
Một dân tộc như vậy, nguyên nhân nào đã biến thành “ra ngõ gặp trộm
cướp, giết chóc”?
Triết gia Immanuel Kant cho rằng ”Tự do là cơ sở tồn tại của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là cơ sở nhận thức của tự do”(Phê
phán lý tính thực hành (Đạo đức học), Bùi văn Nam Sơn dịch và chú giải,
Nhà XB Tri thứcchú thích ở trang 2-3). Có lẽ nên xem lại phương thức
tổ chức quản lý xã hội đang có những gì bất cập so với các nước văn
minh?
6 – GIÁO DỤC TIẾP TỤC TỤT HẬU.
ĐH11 quyết định:” Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu.Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục , phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”( văn kiện trang 130,
131).
Cách đây 20 năm nền giáo dục Việt Nam đã
được nhận diện những điểm không bình thường : Trường chuyên, lớp chọn;
Thi cử phức tạp; Nhồi nhét, không chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo;
Học thuộc lòng các bài mẫu; Dạy thêm học thêm lu bù; Sách giáo khoa in
lại liên tục, nhưng nội dung không đổi mới; Chất lượng giáo viên mỗi
năm thêm sa sút; Lương giáo viên không đủ sống… Có nhiều cấp ủy Đảng chỉ
thị ngành giáo dục phải soạn giáo án tuyên truyền chủ trương chính
sách : đưa vào chương trình phổ thông 13 luật thuế, luật phòng chống
tham nhũng…
Nhiều cuộc hội thảo huy động trí tuệ
các nhà giáo dục góp ý xây dựng. Nhiều nhà giáo dục giàu tâm huyết và
trí tuệ như Hoàng Tụy, Hồ Ngọc Đại, Văn Như Cương… phân tích mổ xẻ ung
nhọt của ngành giáo dục, đề xuất nhiều kiến nghị như: Khuyến khích sáng
tạo; coi trọng óc tưởng tượng; Công bằng , dân chủ trong giáo dục; Tôn
trọng cá tính học sinh; Bắt buộc cấp tiểu học, tiến tới trung học và mở
cửa đại học; Chú trọng bồi dưỡng nhân tài… Tuy nhiên giáo dục cứ như cỗ
xe tụt dốc! Dù cho được tăng tỉ lệ đầu tư, nhưng hiệu quả thì xuống
thấp. Chất lượng Đại học Việt Nam không được quốc tế công nhận.
Càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ cố
tìm cách cho con đi học ở nước ngoài, ban đầu chỉ đi học cấp đại học,
nay đưa đi học nước ngoài ngay từ cấp phổ thông. Xã hội đã quen với cụm
từ “tị nạn giáo dục” nói về tình trạng này.
Nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân nói:”Nền giáo dục hiện nay có nhiều lỗi hệ thống”. Giáo sư Văn Như Cương nói:” Tính dối trá tràn ngập nền giáo dục”…
Mới đây, Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố bản báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013-2014” thực hiện ở 148 nước. Kết quả xếp hạng các hạng mục lớn của báo cáo cho thấy:
Về chất lượng giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam đều thua kém các
nước trong khu vực Châu Á. Ở bậc tiểu học Việt Nam có tỉ lệ đi học cao
nhưng chất lượng giáo dục thua kém nhiều nước trong khối ASEAN. Theo ông Trịnh Ngọc Thạch,
phó chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng
của Quốc hội thì đưa trẻ đến trường nhiều chưa nói lên được chất lượng
tốt. Nói chất lượng phải tính mấy yếu tố: Thứ nhất là chương trình
có tốt không.Thứ hai là giáo viên có tốt không. Thứ ba là cơ sở vật
chất có tốt không. Cả ba cái này chúng ta đều yếu. Bà Nguyễn Thị Bình
nguyên phó chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng giáo dục năm 1976 nói:”Các
tổ chức quốc tế đều đánh giá, trong chiến tranh, Việt Nam là tấm gương
về giáo dục.Song bây giờ giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có tổ
chức còn đánh giá giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào.”
Có hai vấn đề cốt lõi : Một là, mấy chục
năm qua, thày giáo không chỉ bị đãi ngộ vật chất quá thấp kém mà quan
trọng hơn, trong một xã hội chính trị hóa, người thầy không còn được
coi trọng như trong xã hội dân sự trước kia. Nấc thang giá trị của thày
giáo ở dưới các cán bộ Đảng và tất cả các cán bộ đoàn thể. Hai là nền
giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa sâu sắc, bị chỉ đạo bởi ý thức hệ,
nhằm đào tạo ra những công cụ trung thành phục vụ chế độ. Giáo điều,
triệt tiêu tự do tư tưởng, cắt cánh tưởng tượng sáng tạo, không tôn
trọng cá tính… đều xuất phát từ đó. Sản phẩm của một nền giáo dục như
vậy sẽ không thể hội nhập được với nhân loại hiện đại và chắc cũng
không thể là nguyên khí quốc gia trong sự nghiệp hiện đại hóa. Trong
thời đại toàn cầu hóa, dù quan tâm đến thực tế đất nước, nhưng không
nên tạo ra một nền giáo dục dị biệt với thế giới. Giáo dục phải tuân
theo các giá trị phổ quát của nhân loại, tự do dân chủ, bình đẳng. Những
nước đi sau như chúng ta rất cần tham khảo, học theo các nền giáo dục
tiên tiến .
7 - “Vì sao công tác
xây dựng Đảng được TƯ rất coi trọng, đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị rất
đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt
yêu cầu?… Vướng mắc chính là ở chỗ nào?” ( TBT Nguyễn Phú Trọng).
Cương lĩnh : “Để đảm đương
được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ
trí tuệ, bản lĩnh chính trị phẩm chất, đạo đức và năng lực lãnh đạo”. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011-2020, Chương V, mục 3:”Thực
hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài
của công tác xây dựng Đảng”.
Sau một năm, ngày 26-12-2011, Hội nghị TƯ 4 nhận định: bình, tự phê bình“Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham
nhũng,lảng phí, hư hỏng trong một bô phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng
nghiêm trọng hơn, làm xói mòn niềm tin đối với Đảng”. Hội nghị TƯ 4 đề
ra “những việc cần và có thể làm ngay” là tiến hành trong toàn Đảng tự
giác, gương mẫu kiểm điểm, phê bình, tự phê bình”.
Sau gần 2 năm thực hiện nghị quyết TƯ 4,
tình hình tham nhũng không giảm mà đang tăng lên và diễn biến rất phức
tạp, đáng lo ngại:
- Ngày 5-12- 2012 Tổ chức Minh bạch thế
giới (Transparency international) xếp Việt Nam về kết quả chống tham
nhũng tụt 11 bậc, xuống 123/182 nước.
- Từ tháng 9-2012 đến 3-2013 Tổ chức
Minh bạch quốc tế tổ chức khảo sát và kết luận: 55% người dân Việt Nam
cho rằng tham nhũng đang tăng, tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở các cơ
quan chức năng, ở lĩnh vực đất đai. Điều đáng lo là chỉ có 38% người dân
Việt Nam nói mình dám tố cáo tham nhũng, tỉ lệ thấp nhất so với người
dân trong khu vực ASEAN (bình quân là 63%). Tại sao vậy? Rất dễ hiểu
thôi, xin kể 2 vụ việc trong hằng trăm vụ việc như thế: Theo báo Người
Cao tuổi:Ở Ninh Bình có ông cựu chiến binh Đinh văn Phiêu tố giác ông Ủy
viên TƯ, Bí thư tỉnh Ninh Bình Đinh văn Hùng, tham nhũng, buôn trống
đồng. Lập tức ông bị bắt đưa ra tòa xử 5 năm tù giam vì tội vu khống.
Ông Lê Đăng đảng viên 60 tuổi Đảng tố cáo Thành phố Biên Hòa làm trái
Quyết định 227 của Thủ tướng về quy hoạch, lập tức ông bị khai trừ Đảng.
Người dân thường cứ nhìn vào đó mà liệu giữ mình!
- Mới đây các cơ quan thanh tra Việt
Nam khảo sát cho biết có 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, trong 20
vụ tham nhũng lớn nhất thì 50% xảy ra ở doanh nghiệp nhà nước.
- Ngày 18-9-2013, trong cuộc họp UBTV Quốc hội, chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nói”Không tham nhũng lấy tiền đâu mà chạy chức?” Và ông đặt câu hỏi gây chấn động dư luận xã hội:”Có tham nhũng trong lực lượng chống tham nhũng không?”
Cuộc họp cho rằng rất cấp thiết phải trả lời câu hỏi: Vì sao tham nhũng không giảm mà cứ tiếp tục tăng?
Tại Hội nghị TƯ 5, TBT Nguyễn Phú Trọng
đặt ra một loạt câu hỏi để tìm câu trả lời: ”Phải chăng do các cấp ủy,
chính quyền và người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ ý thức và bản lĩnh
chính trị, tinh thần trách nhiệm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện? Do
sức chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng quá yếu? Do sự kém tu dưỡng rén
luyện của của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức? Do
chưa phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân, của công luận? Do
những bất cập trong việc ban hành, thực thi các văn bản quy phạm pháp
luật? Do mô hình tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống tham
nhũng chưa phù hợp? Do sự yếu kém, tiêu cực trong công tác phát hiện và
xử lý các vụ tham nhũng lãng phí?”
Các câu hỏi của TBT Nguyễn Phú Trọng đều chính xác, tuy nhiên chưa phải là câu hỏi chủ yếu nhất cần phải đặt ra . Tại Hội nghị TƯ 4, TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là:”
Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu
rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu?…..Vướng mắc chính là ở chỗ
nào?”
Đây mới thực là câu hỏi rất lớn, do đó
chúng tôi cho rằng phải tìm câu trả lời theo cách mà TBT Nguyễn Phú
Trọng nhiều lần nhấn mạnh là phải “đột phá” !
Xin thưa với Tổng bí thư: Có thể đoan chắc rằng, trong lịch sử không
có một đường lối, chính sách nào rất đúng, rất hay lại được vận động
sâu rộng mà đi tới thất bại cả! Hay, đúng thì phải sát thực tế, tạo ra
được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bất cứ giải pháp nào đưa tới thất
bại, hơn nữa lại là thất bại rất nhiều lần, kéo dài hàng chục năm thì cần phải thực sự cầu thị, để nhận thức rằng đó là một giải pháp sai !
Nhà nước ta đã ký kết tham gia Công ước
Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng từ 1-7-2009. Công ước này là tập
trung trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đúc kết nên.
Trong đó, không có kinh nghiệm nào chống tham nhũng thành công từ tự phê
bình, phê bình cả !
Công ước này đặt 2 điều đầu tiên cho chính sách và thực tiễn chống tham nhũng là :
1-“Thúc đẩy sự tham gia của xã hội và thể hiện các nguyên tắc của chế độ pháp quyền”.
2- Về “cơ quan phòng chống tham nhũng” thì điều đầu tiên là có
“sự độc lập cần thiết” để “ thực hiện chức năng của mình một cách hiệu
quả và không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.
Tiếc thay cả hai vấn đề quan trọng nhất của Công ước này, đều không được Việt Nam vận dụng!
Câu hỏi của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng sẽ
được trả lời không khó khăn nếu tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đều
phải đặt dưới pháp luật.
Trước khi kiến nghị các giải pháp khắc phục tình trạng khủng hoảng toàn diện kể trên, xin trích dẫn ý kiến của Engels đại diện cho K.Marx viết lời tựa bản Tuyên ngôn tiếng Đức năm 1883 :” Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội- cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. Nền sản xuất kinh tế đa thành phần phát triển đã làm cho chiếc áo toàn trị quá chật, đòi hỏi phải thay bằng chiếc áo dân chủ.
B – KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP.
1- Đại hội 6 chủ trương
“Đổi mới toàn diện bắt đầu từ đổi mới kinh tế”. Đại hội 11 quyết định
:”KIÊN TRÌ VÀ QUYẾT LIỆT THỰC HIỆN ĐỔI MỚI. ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ PHẢI ĐỒNG
BỘ VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ “…
Thật đáng tiếc là cho đến
nay thể chế, hệ thống chính trị nước ta hầu như vẫn giữ y nguyên
khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội kiểu xô viết . Nền móng tự do dân chủ đã
có từ Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946 đã không được thực hiện, phát
huy. Các quyền tự do cơ bản như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do
hội họp và lập hội, tự do biểu tình đều khất “nợ” nhân dân suốt 68 năm!
Đại hội 6 đã trả lại cho nhân dân quyền tự do kinh tế bị tước mất sau
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà người Việt Nam năng động sáng tạo
hẳn lên, vượt qua đói nghèo, đạt được mức sống trung bình thấp. Tuy
nhiên do chưa được đổi mới chính trị, nhân dân chưa có quyền tự do xây
dựng một nhà nước pháp quyền thể chế hóa các quyền tự do. Không có nhà
nước pháp quyền đúng nghĩa thì tự do kinh tế không được bảo trợ về pháp
lý, bị vướng mắc bởi thể chế chính trị lạc hậu thao túng , chi phối, làm
suy giảm năng lực phát triển. Tình trạng ốm yếu của nền kinh tế Việt
Nam là vì vậy. Không có tự do chính trị cũng hạn chế tự do văn hóa,
không thể tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhân loại, thậm chí không
phân biệt thuần phong mỹ tục với hũ tục. Nhiều cán bộ chính trị tự cho
mình quyền kiểm duyệt, cấm đoán tác phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy. Thiếu
tự do chính trị là nguyên nhân gây hạn chế đồng thuận, chia rẽ dân tộc,
bất ổn xã hội. Tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước là báo
động đỏ cho sự chậm trễ đổỉ mới chính trị.
Có người lo ngại đổi mới chính trị sẽ
gây ra nguy cơ bất ổn xã hội, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản,
nói như vậy là không tin nhân dân, hoặc coi nhân dân là “thần dân”. Đổi
mới chính trị chính là tin nhân dân, tôn trọng nhân dân, cùng nhân dân
thảo luận, lựa chọn, xây dựng một thể chế thực sự của dân, do dân, vì
dân, điều mà Đảng cộng sản thường nêu lên
như tâm nguyện cao cả nhất từ những ngày đầu cách mạng . Đổi mới chính
trị sẽ loại bỏ được nguyên nhân đã làm cho các nghị quyết của Đảng suốt
nhiều nhiệm kỳ cứ phải lặp đi lắp lại :” Quyền làm chủ của nhân dân ở
một số nơi một vài lĩnh vực còn bị vi phạm . Việc thực hành dân chủ còn
mang tính hình thức” (văn kiện ĐH 11, trang 171). Được như vậy thì uy
tín của Đảng , tình trạng nhân dân mất niềm tin vào Đảng sẽ được ngăn
chặn .
2-KHÔNG NÊN THÔNG QUA DỰ THẢO HÍÊN PHÁP NẾU CHƯA ĐẠT YÊU CẦU ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ !
Sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là cơ hội vàng để đổi mới chính trị! Do đó, không nên tùy tiện phủ quyết những ý kiến không hợp với quan điểm bảo thủ, giáo điều mà cần tổ chức tranh luận công khai trên mọi cơ quan truyền thông.
Kiến nghị 72 nhằm xây dựng bản Hiến pháp bảo đảm toàn vẹn lãnh
thổ, phát triển bền vững đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho các
thế hệ hiện tại và tương lai, gồm 7 điểm quan trọng:
1- Lời nói đầu phải làm rõ mục tiêu đảm
bảo an toàn, tự do hạnh phúc cho mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền,
hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai. Quyền lập hiến phải thuộc
về nhân dân. Cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tôn trọng ý
chí dân tộc. Do đó không nên định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã
hội cho một tổ chức chính trị. Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân
dân tin cậy bầu chọn.
2 – Mục đích thành lập Nhà nước là để
bảo vệ các quyền đương nhiên của con người. Dự thảo có nhiều điểm không
phù hợp với các chuẩn mực phổ quát ở các Công ước Liên Hiệp Quốc mà nhà
nước ta đã gia nhập. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” lâu nay mở
đường cho việc nhân danh Hiến pháp đàn áp công dân , cần phải khắc
phục.Do đó, Hiến pháp nên quy định thành lập một Ủy ban quốc gia về
quyền con người.
3 – Cần công nhận quyền sở hữu tư nhân,
tập thể, cộng đồng đối với đất đai, để chống tham nhũng, lộng quyền, móc
ngoặc giữa cán bộ nhà nước và doanh nhân gây thiệt hại cho nhân dân,
đặc biệt là nông dân, gây bất ổn xã hội.
4 – Thực hiện nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập.
5 – Lực lượng vũ trang trung thành với
Tổ quốc và nhân dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, yên bình
cho nhân dân. Đó cũng chính là mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản đặt
ra cho mình từ khi thành lập. Đảng cộng sản là một thành phần trong nhân
dân, không nên quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng cộng
sản.
6 – Bảo đảm quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
7 – Thời gian lấy ý kiến toàn dân đến
kéo dài hết năm 2013, khuyến khích việc tham khảo, so sánh, thảo luận
công khai để xây dựng bản Hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Bản Kiến nghị 72 đã được 15 đại diện
trình lên Ban soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Hơn 14000 người ký tên
hưởng ứng, trong đó có hàng trăm giáo sư trong, ngoài nước, hàng trăm
đảng viên lão thành, cựu chiến binh. Thế nhưng , 700 tờ báo và cả hệ
thông truyền hình phát thanh không đưa tin, không tranh luận công khai
sòng phẳng. Tất cả cơ quan truyền thông nhà nước đơn
phương bóp méo, xuyên tạc, phê phán, nhưng không nêu đích danh Kiến
nghị 72 mà coi đó là lập luận của một “lực lượng thù địch” vô hình, một
“bọn xấu” không có địa chỉ! Thật đáng tiếc, cách làm không minh
bạch như vậy lại có thể xảy ra ở một đất nước đã ký kết các Công ước của
Liên hiệp quốc, đã từng là ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo
an!
Một số người cho rằng việc góp ý
không có vùng cấm, nhưng không được lợi dụng góp ý để vi phạm những vấn
đề thuộc về nguyên tắc cơ bản ! Xin hỏi những điều gì được gọi là “nguyên tắc cơ bản”? Quyền lãnh đạo của Đảng chăng ? Hay “ tam quyền phân lập” chăng ? Không
đúng ! Nguyên tắc cơ bản phải là đảm bảo thực hiện cho được mục tiêu
“của dân, do dân, vì dân” và tất cả phải thượng tôn pháp luật. Do đó,
nếu chưa thống nhất được thì nên dừng lại không nên vội vàng thông qua
bản dự thảo Hiến pháp còn quá nhiều bất cập, nên có thêm thời gian và
không gian dân chủ để thảo luận. Bởi vì nếu vội vàng ban hành bản Hiến
pháp không đạt các tiêu chuẩn tự do dân chủ phổ quát cũng tức là chưa
đạt yêu cầu “đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế” mà ĐH
11 đã đề ra và hậu quả không mong muốn sẽ xảy ra cho dân tộc, cũng
tức là cho Đảng cộng sản.
3 – ĐIỀU 4, GỢI NHỚ “TRƯỚC MẶT QUẦN CHÚNG, KHÔNG PHẢI TA CỨ VIẾT LÊN TRÁN HAI CHỮ CỘNG SẢN MÀ ĐƯỢC HỌ YÊU MẾN” ( HỒ CHÍ MINH).
Đất nước, nhân dân đòi hỏi ĐẢNG TỪ BỎ HÌNH THỨC ĐẢNG TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN. Phải thực hiện “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Hồ Chí Minh đã hứa hẹn, chấm dứt tình trạng đã kéo dài mấy chục năm nay mà nguyên UV BCT Nguyễn văn An đã thẳng thắn và trung thực nhận định : “Bộ Chính trị là vua tập thể”. Không nên tiếp tục làm cho khẩu hiệu thiêng liêng ”tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” để rồi Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước” nên cuối cùng quyền lực nhà nước thuộc về Đảng! Trong dân gian đã lưu truyền công khai những thành ngữ “Đảng cử dân bầu”, “mười năm phấn đấu, không bằng cơ cấu một giờ”… thật là phản cảm.
Chúng ta đang hội nhập toàn cầu, Hiến
pháp của các nước văn minh không ghi quyền lãnh đạo của một đảng chính
trị. Nước ta, từ những ngày cách mạng còn trứng nước, Đảng chỉ có 5000
đảng viên, Hiến pháp 1946 không ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng
nhân dân vẫn theo Đảng, vì Đảng có đường lối giành độc lập, tự do. Việc
đưa sự độc quyền lãnh đạo của Đảng vào Điều 4 Hiến pháp đã gây rất nhiều
tranh cãi. Nhiều đảng viên cộng sản từng giữ cương vị ủy viên Trung
ương, Bộ trưởng cũng không đồng tình. Xin đừng vu cho họ tội chống Đảng,
hoặc suy thoái chính trị. Tại sao họ lại chống lại Đảng mà họ đã bỏ
gần hết cả đời phục vụ chứ ? Bản thân tôi, một đảng viên 55 tuổi đảng,
tôi cảm thấy Điều 4 là sự xúc phạm lòng tự trọng, tự hào của mình là một
đảng viên. Từ khi vào Đảng, các đảng viên từng tâm niệm “phải
yêu dân kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta” và “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà được họ yêu mến.”(Hồ Chí
Minh, ST,1985, T5, trang 184). Hiểu theo ý nghĩa của câu ấy thì việc
ghi Điều 4 vào Hiến pháp không phải là ghi hai chữ cộng sản lên trán
của Đảng mà chính là ghi lên trán của dân tộc ! Liệu cách áp đặt như vậy có được nhân dân yêu mến hay không?
4 – THẾ NÀO LÀ MỘT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN? TẠI SAO LẠI KHÔNG CHẤP NHẬN TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Lý do để các nhà lý luận của Đảng không đồng ý tam quyền phân lập là cho rằng đó là “ dân chủ phương Tây”! Khổ quá! Các vị tìm đâu ra thứ dân chủ phương Đông chứ? Nhà sáng lập “tam dân chủ nghĩa” Tôn Trung Sơn
nói hẳn rằng, dân chủ dân quyền thì phải học phương Tây, bởi vì phương
Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền. Đã
có nhiều nước phương Đông thực hiện nhà nước tam quyền phân lập như
Nhật, Hàn quốc…nâng cao quyền dân, hạn chế được tham nhũng, đất nước
phát triển rất nhanh. Chính các nước này đang chìa tay giúp đỡ ta. Ta cứ
công kích tam quyền phân lập là theo Tây, không sợ mất lòng những
người giúp đỡ mình sao?
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài viết “Dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp từ năm 2009, đã cảnh báo tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu phát triển là do thiếu cơ chế giám sát, kiềm chế quyền lực, “đó là lỗ hổng và yếu kém nhất trong hệ thống tam quyền của nhà nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể chế”. Ông cũng băn khoăn khi
“việc thực hiện ba quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ông cho rằng
lẽ ra sự lãnh đạo của Đảng là ở đường lối và đưa ra quan điểm lớn “Phải
làm thế nào để thực hiện cho được quyền tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không chấp nhận bất cứ sự chi phối nào ngoài pháp luật”. Đến
nay, dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng gần như cũ :“Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân…. do Đảng cộng sản VN lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tiến
sĩ Nguyễn Đăng Hưng có một thắc mắc rất có lý “đã thống nhất sao lại còn
phân công ?” Vừa qua, một báo cáo viên của Ban Tuyên huấn Trung ương
xuống giảng giải ở Đảng bộ phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM đã giải
thích: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân là một khối
thống nhất, do đó không thể chia cắt, không thể phân lập! Tại sao các
nhà lý luận của Đảng không chịu hiểu rằng, nhà nước là công cụ để phục
vụ nhân dân, do đó nhân dân muốn phân chia nó thế nào để phục vụ mình
tốt hơn là quyền của nhân dân chứ?
Tại sao các chế độ dân chủ tìm đến
nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập? Xin trích dẫn ra đây ý kiến
của hai bậc hiền triết của nhân loại:
Từ thời cổ đại Platon quan sát các nhà nước và đi đến nhận định: “Tôi
nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không
có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó.Còn nơi nào pháp luật đứng
trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của nhà nước”. Học trò xuất sắc của ông là Aristote, người được Karl Marx
coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại, đã cụ thể hóa tư tưởng của
thày mình, cho rằng quyền lực nhà nước phải được chia làm ba lĩnh vực:
Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Suốt hơn 2000 năm sau đó những đầu óc vĩ
đại của nhân loại không ngừng khám phá, bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng
phân quyền. Trong đó J Locke và Montesquieu được đánh giá đã
ghi hai cột mốc lớn nhất. Cho đến nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ,
giàu mạnh tổ chức nhà nước theo tam quyền phân lập, dù hình thức có đôi
chỗ khác nhau, nhưng điều cơ bản, phổ quát là không đổi.
Montesquieu cho rằng:”Khi mà quyền Lập pháp và Hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không
còn gì là tự do nữa, người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy chỉ
đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự
do nếu như quyền Tư pháp không tách rời quyền Hành pháp và Lập pháp.Nếu
quyền Tư pháp được nhập với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với
quyền sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa cũng sẽ là người đặt
ra luật. Nếu quyền Tư pháp nhập với quyền Hành pháp thì quan tòa có sức
mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức hay của
quý tộc, hoặc của dân chúng năm luôn cả ba quyền lực nói trên thì tất cả
sẽ mất hết”. Ông đặc biệt nhấn mạnh quyền Tư pháp phải nhất thiết tách
ra, độc lập với hai quyền kia.
Ngày nay, nhân loại đánh giá một nhà nước dân chủ văn minh khi thực hiện tốt các tiêu chí:
Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ các quyền con người.
Xã hội được quản lý bởi một chính phủ
của luật pháp. Một cá nhân có thể làm bất cứ điều gì luật pháp không
cấm, còn quan chức nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Đối chiếu những ý kiến ở trên, soi rọi
vào cách tổ chức nhà nước của ta , sẽ không quá khó khăn để hiểu vì sao
nhà nước chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập, nạn quan liêu, tham nhũng
lan tràn không sao ngăn nỗi. Những ý kiến chống lại Tam quyền phân lập
cho rằng nó sẽ làm cho Đảng mất quyền lãnh đạo. Thật là sai lầm! ĐH 11 cho rằng :”Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược ,các định hướng chính sách và chủ
trương lớn, bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, bằng hành
động gương mẫu của đảng viên”(văn kiện,trang 88). Nhà nước tam
quyền phân lập chỉ buộc Đảng, cũng như Nhà nước phải đặt mình ở dưới
Hiến pháp và pháp luật. Tư pháp độc lập của nhà nước pháp quyền có thể
gọi người vi phạm pháp luật bất cứ đó là ai phải trả lời trước tòa án.
Một phó thường dân cũng như ông tổng bí thư đều bình đẳng trước pháp
luật. Có người ví von việc khó chấp nhận điều này là ”Không ai lấy đá tự
ghè vào chân mình”.Nhưng đó chính là cách duy nhất giúp cho Đảng thoát
khỏi tham nhũng, quan liêu như hiện nay, để có thể lấy lại niềm tin
của nhân dân đang sút giảm nghiêm trọng.
5- XÂY DỰNG XÃ HỘI DÂN SỰ ĐÚNG NGHĨA.
Khái niệm xã hội dân sự có từ thời cổ Hy
Lạp, nó chỉ một phạm trù rộng lớn của đời sống xã hội bao gồm gia
đình, tôn giáo, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật…Đến thời khai sáng, các
nhà tư tưởng đề cao quyền tự do cá nhân trong xã hội dân sự, độc lập với
nhà nước, coi xã hội có trước nhà nước, nhà nước không được lấn át xã
hội dân sự . Một nhà nước được coi là văn minh, hợp pháp khi nào được
thành lập bởi sự thỏa thuận của tất cả các cá nhân trong xã hội dân sự,
điều đó được xác lập bằng một Hiến pháp dân chủ. Sự phân chia giữa nhà
nước và xã hội dân sự được coi là đặc trưng của một thể chế chính trị
thực sự dân chủ.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã
hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do
của người dân bị xâm phạm . Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát
triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ . Có thể có xã hội
dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có
chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan,
Thái Lan, Philippine, Indonexia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài
đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh
chóng.
Trong thể chế theo mô hình xã hội chủ
nghĩa xô viết, tất cả đều Nhà nước hóa, từ đời sống kinh tế, chính trị,
văn hóa, cái công cộng xóa bỏ cái riêng tư. Nhân dân chỉ còn sở hữu tập
thể đối với tư liệu sản xuất, ngay sức lao động và quyền bán sức lao
động của mình cũng không còn, gia đình, tín ngưỡng cũng mất tính độc
lập. Xã hội dân sự nhường chỗ cho xã hội toàn trị. Tất cả các hội đoàn
đều do người của cấp ủy Đảng cử ra làm chủ tịch, thậm chí cả Đoàn chủ
tịch, Ban Thường vụ đều là đảng viên. Tất cả các hội đoàn lấy nghị quyết
của Đảng làm chuẩn để soạn thảo nghị quyết của mình. Nông dân đi
khiếu kiện không có thể dựa vào Hội nông dân ; Công nhân đình công
không thể yêu cầu công đoàn lãnh đạo. Báo chí là tiếng nói của một hội
đoàn nào đó, không phải tiếng nói của một con người tự do.
Đổi mới kinh tế mở ra một nửa cánh cửa
của xã hội dân sự. Tuy nhiên các quyền tự do về tinh thần, tự do hội
họp, lập hội, biểu tình, tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí, tự do sáng
tạo nghệ thuật… vẫn chưa được thực hiện theo các giá trị phổ quát của
nhân loại đã được ghi nhận trong các Công ước của Liên hiệp quốc và đã
được Nhà nước Việt Nam cam kết gia nhập. Nhiều cán bộ cao cấp vẫn còn
ngộ nhận: Cho rằng nước ta đã có hàng trăm hội đoàn cớ sao cứ bảo chưa
có tự do hội họp và lập hội ? Đã có hơn 700 tờ báo, tỉnh nào cũng có
đài phát thanh, truyền hình cớ sao cứ kêu không có tự do báo chí, tự do
ngôn luận? Xin các vị đọc lại ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này. Trong “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Versaille tháng 1- 1919 có 8 điều, điều 3 là: “Tự do báo chí và tự do ngôn luận”; Điều 4 là “Tự do lập hội và hội họp”. Trong quyển “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết những năm 1921-1926 có đoạn:”
Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một
tờ báo nào cả. Tôi gọi tờ báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh
tế, hay văn học như đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không
phải một tờ báo do chính quyền lập ra” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội
nhà báo TP HCM, 1980, trang 9). Như vậy, khi nói về các quyền tự do, Hồ
Chí Minh cho rằng đó phải là tự do của mỗi con người. Đến năm 1938, báo Dân chúng của Đảng cộng sản xuất bản không xin phép và được nhà nước thực dân Pháp chấp nhận. Trong chế độ thuộc địa hà khắc, xã hội dân sự Việt Nam vẫn len lỏi nảy nở.Từ năm 1920 đã có công hội của Tôn Đức Thắng. Từ năm 1930 đã có các Đảng chính trị như Quốc dân Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam và các hội đoàn như Hội Ái hữu, Hướng đạo; từ năm 1934 có Tự lực văn đoàn một hội đoàn hiện đại tạo ảnh hưởng rất lớn lao về văn học và xã hội; 1937 có Hội truyền bá quốc ngữ…
Trừ hai đảng chính trị, các hội đoàn đều công khai hoạt động. Chẳng lẽ
nhà nước Việt Nam cảnh giác đối với nhân dân đã trải qua 68 năm làm
cách mạng của mình hơn cả bọn thực dân Pháp! Chúng ta hãy nhìn ra thế
giới văn minh, nhìn gần hơn là các nước quanh vùng để thương cho dân
mình và mau chóng thực hiện các quyền tự do đã bị treo suốt 68 năm.
Xã hội dân sự bao trùm tất cả các mặt
của đời sống xã hội cho nên nó vô cùng quan trọng. Thời đại toàn cầu hóa
cho thấy con đường văn minh của nhân loại có những điểm chung giống
nhau trong sự vận dụng các giá trị phổ quát, hình thành mô hình xã hội
tiến bộ, phát triển, gồm có “ bộ ba” không thể thiếu một, đó là : xã
hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền.
Ngày 30 -9-2013
đưa các cựu chiến binh ngày xưa ở trong rừng ăn cháo bẹ rau măng lên làm kinh tế thử hỏi sao phát triển được
RépondreSupprimerCác ông hỏi tại sao đất nước nghèo !KHÔNG LỤN BẠI MỚI LÀ KỲ LẠ 1 NĂM 365 NGÀY HỌP ĐẢNG VÀ CUỐC HỘI HẾT 200 NGÀY THÌ DÂN CÓ MÀ CẠP ĐẤT ĂN ĐỂ LẤY TIỀN CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN ĐI HỌP ,HẾT tw RỒI ĐẾN tp RỒI QUẬN HUYỆN TRIỂN KHAI ,CUỐC HỘI VỪA HỌP XONG LẠI TỚI HỌP tw ĐẢNG ,NHƯ MỶ CHÚNG NÓ CẮT TIỀN KINH PHÍ HOẠT ĐỘNG , HỌP LÀM CÁI GÌ CƠ CHẾ CỦA ĐẢNG TRÊN CẢ HIẾN PHÁP THÌ ÔNG SINH HÙNG VÀ CÁC ÔNG NGHỊ CÒN HỌP LÀM CHI CHO PHÍ TIỀN DÂN ,CÙNG NHAU VỀ HỌP TỔ ĐẢNG CHO GỌN.KHÔNG CÒN CON ĐƯỜNG NÀO CHO DÂN VN
RépondreSupprimerThương Tống văn Công quá ! Viết tiếp đi bác !
RépondreSupprimerĐây là bài viết hay và sâu sắc của một người thuộc thế hệ cháo bẹ rau măng .Ý kiến của anh bẩy Nhị rất đáng suy ngẫm .Mọi sự đổ vỡ đều tứ chổ ko còn "tuy hai mà một" nữa .Sự phân hóa này ngày càng sâu sắc và diễn ra trên toàn xã hội .Giải quyết được mâu thuẫn này quyết định sự thịnh suy của đất nước .Tam quyền phân lập,xây dựng xã hội dân sự,thể chế dân chủ cũng nhằm giải quyết mâu thuẫn đó .
RépondreSupprimerBác Bảy ơi ! sau cùng của bài viết nầy thì nên thế nào bác nhỉ ,nó còn đáng được sống trong xả hội VN ngày nay hay không
RépondreSupprimercách nay 50 năm học sinh miền nam từ lớp 1 tới lớp 12 ,học sinh hoc miễn phí không đóng tien gì cả,sau 50 năm giải phóng cách mang ưu việt hơn mà sao đóng tiền suốt đời vậy các bác,cải cách nhiều quá rồi các bác,bây giờ cải cách như đánh trận điện biên phủ vậycho dân nhờ
RépondreSupprimercách nay 50 năm học sinh miền nam từ lớp 1 tới lớp 12 ,học sinh hoc miễn phí không đóng tien gì cả,sau 50 năm giải phóng cách mang ưu việt hơn mà sao đóng tiền suốt đời vậy các bác,cải cách nhiều quá rồi các bác,bây giờ cải cách như đánh trận điện biên phủ vậycho dân nhờ
RépondreSupprimer