Từ Thức
Văn phòng giám đốc đại học Harvard,
một ngày cuối thế kỷ 19. Một cặp vợ chồng rụt rè xin gặp ông giám đốc.
Cô thư ký nhìn vẻ quê mùa của hai người
khách, chiếc quần sờn gấu của ông và bộ quần áo bình dân của bà, trả lời :
ông giám đốc rất bận, chỉ tiếp khách có hẹn. Đúng ra, ông chỉ quen tiếp những
trí thức danh tiếng, những người gia thế, có vai vế trong xã hội.
Hai người khách nhất định xin được ở lại
chờ, vì có chuyện muốn nói. Xế chiều, ông giám đốc Harvard mới hết khách, xách
cặp ra về. Cặp vợ chồng xin được thưa chuyện vài phút.
Ông bà cho hay người con trai duy nhất của
họ, sinh viên năm đầu của trường, vừa chết vì bịnh thương hàn, và muốn dựng một
cái gì để tưởng nhớ đứa con.
Ông giám đốc thông cảm cái đau buồn của
khách, nhưng trả lời : ông bà thử tưởng tượng, nếu mỗi gia đình có tang
xây một mộ bia, bồn cỏ nhà trường sẽ thành một nghiã trang.
Ông khách nói : chúng tôi không muốn
xây mộ bia. Chúng tôi muốn nhân danh con, xây tặng một giảng đường, hay một nhà
nội trú.
Ông giám đốc nhìn bộ quần áo bình dân, vẻ
quê mùa của khách, mỉm cười : ông có biết xây một giảng đường tốn hàng
trăm ngàn Mỹ kim ?
Bà khách nhìn chồng, nhỏ nhẹ : Nếu
chỉ có vậy, tại sao mình không dựng luôn một trường đại học ?
Hai ông bà ra về. Ít lâu sau, trường đại
học Stanford ra đời và trở thành một 3 đại học uy tín nhất thế giới. Ông giám
đốc Harvard không biết mình vừa tiếp hai vợ chồng tỉ phú Stanford , vua xe
lửa, sau này trở này trở thành Thống đốc California
TRẢ LẠI CHO XÃ HỘI
Giai thoại trên đây về Leland và Jane
Stanford được kể đi kể lại, nói lên nhân sinh quan đặc biệt của người Tây
Phương, nhất là ở những xứ ảnh hưởng văn hóa Tin Lành ( 1 ), với phương châm
được dạy dỗ và thấm nhuần từ nhỏ : trả lại cho xã hội những gì đã nhận
được của xã hội.
Khía cạnh văn hóa đó giải thích tại sao ở
Hoa Kỳ và Bắc Âu có những nhà tỷ phú như Bill Gates, Warren Buffett, Zuckerberg
dành những ngân khoản khổng lồ làm việc từ thiện, tài trợ những dự án có công
ích, trong khi ở những xã hội khác, những người giầu có, nhất là mới giầu, chỉ
biết khoe của, phung phí một cách lố bịch, nham nhở.
Những ông bà hoàng dầu lửa, keo kiệt, tàn
nhẫn với gia nhân, nhất là di dân lao động, không biết dùng tiền bạc làm gì hơn
là phòng tắm, cầu tiêu bằng vàng, xây cất những trường đua ngựa vĩ đại với bồn
cỏ xanh giữa sa mạc, ở một xứ Hồi giáo cấm cờ bạc, cấm đánh độ.
Những tỷ phú Tàu xây lại lâu đài Versailles
hàng trăm phòng cho hai vợ chồng với một cậu cả.
Những ông trời con, những cô bồ nhí của
quan lớn ở Việt Nam làm thang máy bằng vàng, xây dinh thự xanh đỏ, Tây không ra
Tây, Tàu không ra Tàu, lấy tiền gấp tàu giấy cho con thả chơi.
Những nhà độc tài Phi châu dựng lại nhà
thờ Vatican giữa một biển nghèo đói, dùng máy bay riêng chở thợ may, thợ đóng
giầy nổi tiếng từ Paris, từ Rome ( Roma ) tới may bộ quần áo giá cắt cổ thứ
200, hay áo lông ( fourrure ) cho các mệnh phụ sống ở những xứ nóng như lửa.
Hai tư duy khác nhau, đưa tới hai xã hội
khác nhau : một bên thịnh vượng, tiến bộ, một bên nghèo đói, lạc hậu.
TỪ KINH DOANH TỚI VIỆC NGHĨA
Những nhà triệu phú Mỹ, khi kinh doanh,
không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào để thành công, kể cả đánh gục đối thủ
cạnh tranh, để chiếm độc quyền. Đó cũng là một khía cạnh của văn hóa Tin
lành : không có mặc cảm với tiền bạc, với thương mạị.
Đó
là một yếu tố văn hoá, nhưng nó giải thích phần nào cho sự thành công kinh tế
của những nước như Hoa Kỳ, Bắc Âu. Văn hoá Tin Lành đã tạo ra những xứ tư bản
Tây Phương.
Người Tin lành không che dấu chuyện đã làm
ra tiền, coi đó là dấu hiệu của thành công. Gặp người Mỹ, vài giờ sau
biết họ lãnh bao nhiêu dollars mỗi năm, có bao nhiêu cái nhà, cái xe.
Văn hoá Thiên chúa giáo có mặc cảm với
tiền bạc. Không bao giờ người Pháp nói về lương bổng của mình, ít khi phô
trương, gần như muốn che dấu nếu thành công trong đời.
Người Mỹ áp dụng những phương pháp hữu
hiệu để kinh doanh, để làm giầu, nhưng khi đã thành công rồi, nghĩ tới
việc trả lại cho xã hội những gì đã nhận của xã hội.
Khi Bill Gates trình bày với vợ, con về dự
án dùng trên 40 tỷ dollars cho Foudation Bill & Melinda Gates, và
quyết định chỉ để lại cho mỗi người con 10 triệu ( ít quá, khó thành công;
nhiều quá, chỉ làm hư con cái ), cả bà vợ và các con đều vui vẻ chấp nhận. Bởi
vì họ được dạy dỗ, thấm nhuần văn hoá đó từ nhỏ.
Khi Bill Gates nói về dự án của mình,
Warren Buffet đã hưởng ứng ngay, đóng góp phần lớn gia sản kếch sù cho
Foudation Gates. Trên 50 tỷ phú, đa số là người Mỹ , đứng đầu là Zuckerberg, đã
noi gương Bill Gates
Các
trường đại học Mỹ hay Anh đều giầu có, với những ngân sách khổng lồ, ngang với
ngân sách một quốc gia nhỏ, mà nhà nước không tốn một xu, bởi vì những cựu sinh
viên khi đã thành công ngoài đời đều quay lại, tự nguyện đóng góp. Đối với họ,
đó là một chuyện tự nhiên, khỏi cần ai kêu gọi. Không làm, mới là chuyện bất
bình thường.
Đơn giản như vậy, nhưng đem áp dụng ở
những nước khác, rất khó. Phải bắt đầu bằng sự thay đổi văn hóa, thay đổi tư
duy. Và văn hoá, không phải chuyện một sớm một chiều. Đó là chuyện của hàng thế
hệ.
Tinh thần ‘’ trả lại cho xã hội ‘’ giải
thích tại sao vai trò của xã hội dân sự cực kỳ quan trọng trong các xã hội Tây
Phương. Nó nhân bản hóa các xã hội tư bản.
Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, tiêu biểu cho chế độ
tư bản, nó xoa dịu những bất công của một xã hội cạnh tranh, mạnh được yếu
thua. Đó là hai khuôn mặt mâu thuẫn của tư bản Tây Phương. Mâu thuẫn hay bổ túc
lẫn nhau ?
Những foundations tư nhân, nhan
nhản khắp nơi, với những số tiền nhận được ở khắp nơi gởi giúp, trợ cấp học
bổng, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, phát triển nghệ thuật văn hoá, giúp đỡ
người nghèo, người sa cơ lỡ vận.
TRUYỀN THỐNG BÁC ÁI
Tại Pháp, nơi người Tin Lành chỉ chiếm
trên dưới 3 %, cái tinh thần ‘’ trả lại cho xã hội ‘’ không mạnh như ở Hoa Kỳ
hay các nước có văn hoá Tin Lành ở Bắc Âu. Những trường đại học lớn, uy tín
nhất của Pháp, những năm gần đây kêu gọi các cựu sinh viên đã thành
đạt đóng góp cho trường, nhưng kết quả rất khiêm nhượng.
Không phải một sớm một chiều người ta có
thể tạo một truyền thống.
Mặc dầu vậy, tinh thần bác ái ăn sâu tại
các nước Thiên Chúa giáo như Pháp, Ý, Tây Ban Nha ( Espagne, Spain ) đã thúc
đẩy các xã hội dân sự hoạt động tích cực.
Tại Pháp chẳng hạn, tổ chức Resto du Cœur
mỗi năm tặng thực phẩm, bữa ăn cho hàng triệu người. Emmaüs, một tổ chức thiện
nguyện do linh mục Pierre lập ra không những giúp đỡ người nghèo, còn tạo công
ăn việc làm cho hàng trăm người. Một trong những hoạt động của Emmaüs :
nhận bàn ghế, TV, tủ lạnh, computers , quần áo cũ của thiên hạ gởi tặng, sửa
lại, bán rẻ lấy tiền làm việc nghĩa. Nhân viên của Emmaüs đều là những người
gọi là SDF ( Sans Domicile Fixe , Không nhà không cửa, homeless ), theo
nguyên tắc dạy người ta câu cá hơn là cho tiền mua cá. Những người điều hành là
những người có dư khả năng làm lương lớn trong các hãng tư, nhưng muốn làm việc
công ích để đóng góp cho xã hội.
TỪ GIA ĐÌNH TỚI XÃ HỘI
Người Tây Phương, có tinh thần cá nhân chủ
nghĩa, nhưng không ích kỷ như chúng ta nghĩ.
Rất nhiều người tích cực và nghĩ đến người
khác, coi việc giúp đỡ người khác, cải thiện xã hội là một bổn phận.
Người Việt hy sinh, nghĩ tới người khác
nhiều hơn chính mình, nhưng ‘’ người khác ‘’ chỉ luẩn quẩn trong nhà, cha mẹ,
vợ chồng, con cái, không ra khỏi ngưỡng cửa gia đình . Gia đình VN chặt chẽ,
nhưng xã hội VN lỏng lẻo. Gia đình Tây Phương lỏng lẻo, nhưng xã hội của người
ta chặt chẽ. Chữ liên đới, bác ái, huynh đệ không phải là những danh từ trống
rỗng trên cửa miệng
Người Việt dành trọng tâm đời mình cho gia
đình. Tai họa xẩy ra cho người thân làm tiêu tan luôn đời mình. Mất một người
thân, cuộc đời kể như chấm dứt. Ngồi rầu rĩ thương thân, oán phận
Thái độ của người Tây Phương tích cực hơn.
Họ nghĩ tới xã hội. Họ không bi quan yếm thế. Tại họa cá nhân không đánh gục
họ, trái lại, trở thành một động lực khiến họ lao đầu vào việc cải tiến xã hội.
‘’
OUR CHILDREN ‘’
Hai ông bà Stanford, khi cậu con cưng
chết, quyết định : từ nay, tất cả những đứa con California sẽ là con mình.
‘’ The children of California shall be our children ‘’
Ở Pháp, những bà mẹ có con thơ ấu chết vì
tai nạn xe hơi, thay vì ngồi than trời oán đất, hay oán thù người gây tai nạn,
đã thành lập một hội rất thế lực, Ligue Contre La Violence
Routière ( Hội chống lại bạo lực lưu thông ) hoạt động tích cực đòi quốc
hội, chính phủ ban hành những luật lệ hạn chế vận tốc, kiểm soát, trừng phạt
những người lái xe sau khi uống rượu, hút cần sa ma túy, mở những lớp về an
ninh lưu thông, hỗ trợ các gia đình nạn nhân.
Các nạn nhân khủng bố lập những hội tương
trợ các nạn nhân như mình. Một phụ nữ Pháp, thoát chết trong cuộc khủng bố Hồi
giáo ở Paris, nói : chưa bao giờ tôi hạnh phúc hơn, vì có một gia
đình trên 200 người.
Có người trong gia đình chết vì ung thư,
họ lập những hội giúp bệnh nhân ung thư.
Những người cựu SDF, khi có công ăn việc
làm, mở hội giúp những người vô gia cư.
Người có con chết vì ma túy, gia đình tan
nát vì rượu chè, bỏ tiền bạc, giúp những người nghiện ngập . Họ làm việc đó tận
tụy, âm thầm, coi như chuyện đương nhiên, ngạc nhiên khi có người ngạc nhiên
trước các nghĩa cử đáng khâm phuc đó
Những thí dụ đó nhan nhản, ở mỗi góc phố,
đếm không xuể.
Thí dụ điển hình nhất là tổ chức
Télémathon . Mộ số gia đình có con bị các thứ bịnh hiếm, không có thuốc
điều trị vì không có hãng bào chế thuốc nào bỏ ra những ngân khoản khổng lồ để
tìm kiếm, sản xuất thuốc cho một số rất ít bệnh nhân, đã thành lập Télémathon,
mỗi năm vận động quyên góp được hàng trăm triệu euros. Với số tiền đang kể đó,
họ tuyển dụng các y sĩ, các chuyên viên y khoa nổi danh, mở những laboratoires
tối tân để nghiên cứu phương pháp chữa trị, tìm tòi thuốc men. Tiền đóng góp từ
khắp nơi gởi về, thường thường là của những người lợi tức thấp, nhưng sẵn sàng
giúp người thiếu may mắn hơn mình. Và những người hoạt động tích cực nhất là
những người có con cái đã chết vì bạo bệnh, hoạt động để tránh cho người khác
thảm kịch của chính mình.
Không quay đầu về quá khứ, tiến về phiá
trước, nghĩ đến việc cải thiện xã hội, đó là những yếu tố khiến xã hội Tây
phương thành công. Cả về kinh tế lẫn chính trị. Bởi vì dân chủ không phải chỉ
xây dựng trên giấy tờ, qua hiến pháp, bầu cử, luật lệ. Nó phải được thực thi,
bảo vệ, nuôi dưỡng bởi xã hội dân sự.
CHA CHUNG KHÔNG AI KHÓC
Người VN hy sinh cho gia đình, đó là một
đức tính đáng cảm phục. Đó là một điều may, khiến xã hội VN không hoàn toàn băng
hoại. Hay xã hội đã băng hoại, nhưng vẫn còn những ốc đảo là hàng triệu gia
đình, đang âm thầm cố thủ.
Ngưòi Việt hết lòng với gia đình, nhưng
hoàn toàn thờ ơ với xã hội.
Phương châm của người Việt : vườn ai
nấy rào. Người ta đốn cây, tôi mặc kệ, vì là cây ngoài đường. Người ta xẻ
núi, phá rừng, xây chung cư, khách sạn, tôi ngoảnh mặt đi để tránh vạ lây. Hậu
quả là VN được trời cho một giang sơn gấm vóc, ngày nay bị tàn phá một cách thô
bạo. Nha Trang, Đà Lạt, Sapa…, những thắng cảnh tuyệt vời đang trở thành những
đống xi măng, cốt sắt thô kệch, trưóc sự thờ ơ của mọi người. Cha chung không
ai khóc.
Tại các nước Tây phương, các di tích lịch
sử được bảo trì một phần lớn nhờ các foundations, các tư nhân. Ở VN,
ngược lại, người ta biến của công thành của riêng, không nương tay tàn phá di
sản của đất nước để làm giầu, để trục lợi.
Khi nào tình thương, sự liên đới, lòng bác
ái, tinh thần trách nhiệm của người Việt ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, lúc đó VN
sẽ có một xã hội lành mạnh, lạc quan, tích cực. Đủ lành mạnh, lạc quan, tích
cực, để xây dựng một chế độ dân chủ đích thực. Để xây dựng lại đất nước đang
trở thành một bãi rác, nghĩa đen cũng như nghĩa bóng.
Từ Thức ( Paris, tháng 1/2018 )
( 1 ) Bài này không có dụng ý ca ngợi đạo
Tin Lành. Tôn giáo nào cũng có ưu và khuyết điểm, sẽ đề cập trong một bài tới
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire