The Illusion of Chinese Power
David Shambaugh
Ngày 25, tháng 6, 2014
Người dịch Hahangiang-
Thailand
Nghĩ đến Trung Quốc như một thế lực toàn cầu là phổ biến, có lý,
và sai.
Theo lẽ thường mà nói thì gã cơ bắp Trung Quốc quả là bất trị và
thế giới phải chuyển mình lại với thực tế, rằng kẻ khổng lồ Châu Á này có thể
là một thế lực toàn cầu. Có cả một làn sóng tiên tri về “Trung Hoa trổi dậy” đã
xuất hiện trong thập niên vừa qua, tất cả đều vẽ lên một bức tranh về thế kỉ 21
với Trung Quốc là diễn viên chính. Điều này rất phổ biến và có thể hiểu được - nhưng
sai.
Nên nhớ rằng cách đây không lâu, những năm 1980 đã có những dự
đoán tương tự về Nhật Bản như là “số một” và gia nhập vào nhóm các tay thượng
thừa của thế giới - trước khi lún vào 3 thập kỉ trì trệ - và lộ ra rằng nó chỉ là thế-lực đơn-chiều
(kinh tế) và tiềm lực quốc gia không đủ rộng để gượng lại. Trước đó nữa Liên
Bang Xô Viết cũng được dự đoán là một siêu thế lực toàn cầu (vậy nên cuộc Chiến
Tranh Lạnh mới diễn ra tận nửa thế kỉ), và rồi lại sụp đổ hầu như sau một đêm
năm 1991. Sự lụi tàn của USSR
cũng cho thấy tương tự rằng nó chỉ là một thế-lực-đơn-chiều (quân sự) và hao
mòn dần trong những thập niên đó. Sau Chiến Tranh Lạnh, một vài học giả nhận định
rằng Liên Minh Châu Âu (EU) lớn hơn và mạnh hơn sẽ nổi lên như một thế lức toàn
cầu và làm trục cho hệ thống quốc tế - để rồi EU tỏ ra bất lực và thiếu khả
năng trước những thách thức tầm cỡ toàn cầu. Châu Âu cũng thế, lộ ra là một
thế-lực-đơn-chiều (kinh tế). Vậy nên, khi nói tới Trung Quốc, một chút hoài
nghi và cảnh tỉnh là cần thiết.
Rõ ràng rằng Trung Quốc là một thế lực trỗi dậy quan trọng nhất -vượt
xa năng lực của Ấn Độ, Brazil
và Nam Phi - và trong một số lĩnh vực thì đã qua mặt tiềm năng của các “thế lực
tầm trung” như Nga, Nhật Bản, Anh, Đức và Pháp. Theo nhiều phương diện thì
Trung Quốc giờ đây hiển nhiên là thế lực số 2 của thể giới sau Mĩ, và trong một
vài phạm vi thì nó đã soán ngôi Mĩ.
Trung Quốc sở hữu nhiều chức vị của một thế lực toàn cầu: dân số
đông nhất thế giới, lãnh thổ đất liền rộng lớn, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới,
dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, quĩ quốc phòng và chi phí quân sự lớn nhất,
lực lượng quân thường trực lớn nhất, một chương trình hoạt động trong không
gian, một tàu sân bay, bảo tàng lớn nhất thế giới, đập thủy điện lớn nhất thế
giới, mạng lưới đường cao tốc lớn nhất thế giới và hệ thống tàu siêu tốc tốt
nhất thế giới. Trung Quốc còn là quốc gia giao thương đầu lĩnh, nguồn tiêu thụ
năng lượng lớn nhất thế giới, là nơi thải ra khí nhà kính nhiều nhất thế giới,
là nước nhận viện trợ lớn thứ 2 thế giới và là nơi khởi đầu lớn thứ 3 thế giới
của đầu tư trực tiếp nước ngoài, và còn là nhà sản xuất lớn nhất thế giới về
nhiều mặt hàng.
Tiềm lực, tuy nhiên, chỉ là một trong những thước đo về sức mạnh
quốc gia và quốc tế - và lại không phải là cái quan trong nhất.
Các thế hệ của các nhà xã hội học đã xác định một kim chỉ quan
trọng về quyền lực là sự ảnh hưởng - khả năng nhào nặn sự kiện và hành động của
kẻ khác. Một nhà khoa học chính trị gần đây, Robert Dahl đã nhận xét: “A có
quyền lực với B ở một mức mà anh ta có thể khiến B làm những điều mà B lẽ ra
lại không làm”. Tiềm lực mà không được chuyển hóa thành hành động để đạt được
những kết quả cụ thể thì không mấy giá trị. Sự tồn tại của chúng có thể mang
lại một tác động ấn tượng hoặc thoái chí, nhưng khả năng ảnh hưởng hành động
của kẻ khác hoặc một sự việc mới quan trọng. Dĩ nhiên là có nhiều cách mà các
quốc gia dùng tiềm lực của mình để ảnh hưởng hành động của kẻ khác và các sự
việc: sự thu hút, thuyết phục, kết nạp, cưỡng bức, ban thưởng, xui khiến, hoặc
là đe dọa hoặc là vũ lực. Quyền lực và sự thực thi của nó vì thế mà liên quan
nhau về bản chất: cách sử dụng những công cụ như trên để ảnh hưởng một tình
huống nhằm mang lại lợi ích cho ai đó.
Khi chúng ta nhìn vào sự hiện diện và hành vi của Trung Quốc trên
vũ đài thế giới ngày nay, chúng ta cần phải nhìn thấu cái tiềm lực bề mặt đầy
ấn tượng và tự hỏi: Liệu Trung Quốc có đang thực sự ảnh hưởng hành động của các
nước khác và quỹ đạo của quan hệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực? Câu trả lời ngắn
gọn là: không nhiều lắm, thậm chí là hoàn toàn không. Rất ít các lĩnh vực - nếu
có - mà Trung Quốc được xem là đang ảnh hưởng các nước khác, đạt tiêu chuẩn
toàn cầu hay là hình thành xu thế toàn cầu, cũng như cố gắng giải quyết các vấn
đề thế giới. Trung Quốc là một thế lực thụ động, phản xạ e dè trước các thách
thức và lẩn đi khi các khủng hoảng quốc tế xảy ra. Các khủng hoảng vẫn đang
tiếp diễn ở Ukraine và Syria
chỉ là một trong những ví dụ gần đây nhất về sự thụ động của Bắc Kinh.
Hơn nữa, khi tiềm lực của Trung Quốc được xem xét cẩn thận, nó
không mạnh lắm. Có nhiều kim chỉ tỏ ra rất ấn tượng về số lượng, nhưng lại
không về chất lượng. Chính sự thiếu sức mạnh về chất lượng đã biến Trung Quốc
thành thiếu ảnh hưởng. Người Trung Quốc có câu tục ngữ “wai ying, nei ruan”:
rắn bên ngoài, mềm bên trong. Đây là một đặc tính xu hướng của Trung Quốc ngày
nay. Cào sơ phía dưới bề mặt của nhiều thống kê ấn tượng về Trung Quốc, bạn sẽ
thấy các nhược điểm diện rộng, những trở ngại quan trọng và một nền tảng mềm
nhũn để trở thành một thế lực toàn cầu. Trung Quốc có thể là con hổ giấy của
thế kỉ 21.
ĐIỀU NÀY được chứng minh qua năm lĩnh vực lớn: chính sách ngoại
giao quốc tế, tiềm năng quân sự, sự hiện hữu văn hóa, thế lực kinh tế và các
yếu tố nội địa làm nền tảng cho vị thế toàn cầu của Trung Quốc. Hãy cùng xem
xét từng thứ một.
1- Về mặt hình thức mà nói,
ngoại giao của Trung Quốc thực sự là toàn cầu. Trong 40 năm vừa qua Trung Quốc
đã đi từ một quốc gia bị cô lập bởi cộng động quốc tế đến khi thành một thành
viên. Ngày nay, Bắc Kinh có quan hệ ngoại giao với 175 nước, là thành viên của
hơn 150 tổ chức quốc tế và là 1 bên của hơn 300 hiệp định đa phương. Được viếng
thăm bởi các quan chức ngoại quốc nhiều hơn bất kì quốc gia nào, và lãnh đạo
của Trung Quốc thường xuyên đi khắp thế giới.
Dù đã hòa nhập vào cộng động quốc tế và chính sách ngoại giao đang
hiện hữu (active diplomacy) của Bắc Kinh, phạm vi ngoại giao lại là một địa
phận mà vị trí mang tính cục bộ của Trung Quốc lộ rõ. Một mặt, Trung Quốc tận
hưởng biểu tượng của một thế lực to lớn của thế giới. Là thành viên vĩnh viễn
của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc (UN security Council), thành viên của G-20 và
các hội đồng chính yếu khác, đồng thời tham gia vào tất cả các cuộc hội nghị
thượng đỉnh quan trọng. Mặt khác, các nhà chức trách Trung Quốc vẫn thoái thác
và thụ động khi họp bàn về các thách thức toàn cầu. Trung Quốc không dẫn đầu.
Không tạo hình thái cho ngoại giao quốc tế, thúc đẩy chính sách các nước khác,
tạo nên sự đồng lòng quốc tế, hình thành các liên minh hoặc là giải quyết vấn
đề. Bắc Kinh không chủ động dính dáng vào giải quyết bất kì vấn đề toàn cầu
nào, mà lại thụ động và thường là thành phần miễn cưỡng trong các nỗ lực đa phương
được tổ chức bởi các nước khác (thường là Mĩ).
Để là một thế lực toàn cầu thì phải đứng vào giữa các mâu thuẫn và
mang các bên lại với nhau, hình thành liên minh và sự đồng thuận chung, và –
vâng - dùng vũ lực khi cần thiết. Bắc Kinh lại thích ngồi bên lề và đơn giản là
kêu gọi các quốc gia giải quyết vẫn đề của họ bằng “các biện pháp hòa bình” và
tìm các giải pháp “lợi đôi đường”. Các câu thần chú trống rỗng như thế chả giải
quyết được gì. Bắc Kinh còn bị dị ứng nặng với các biện pháp cưỡng bức và chỉ
đứng về phía Hội Đồng Bảo An khi mà nếu không, thì sẽ bị cô lập và ảnh hưởng
tiêu cực tới hình ảnh quốc tế của mình. Đây không phải hành vi của một lãnh đạo
toàn cầu.
Thay vào đó, ngoại giao cấp cao của Bắc Kinh thật sự chỉ là một vở
kịch, mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Mục đính chính là củng cố sự
chính danh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP) với những người theo dõi trong
nước bằng việc các lãnh đạo Trung Quốc thân mật cùng thành phần ưu tú của thế
giới, trong khi làm vẻ với cộng đồng quốc tế rằng đất nước này đã trở lại vị
thế hùng mạnh sau một vài thế kỉ bất lực. Theo đó, chính quyền Trung Quốc bỏ
rất nhiều công sức để dàn dựng một cách tỉ mỉ các tiếp xúc giữa lãnh đạo của họ
với các người đồng chức ngoại quốc. Tuy nhiên, cốt lõi chính sách ngoại giao
của Trung Quốc vẫn chủ yếu là thủ thế (tránh rủi ro, risk-averse) và được dẫn
dắt bởi các quyền lợi quốc gia hạn hẹp. Bắc Kinh thường chọn mẫu-chung-nhỏ-nhất
(lowest-common-denomiator) để tiếp cận, theo cách an toàn nhất và quan điểm ít
tranh cãi nhất, và chờ xem quan điểm của các nước khác ra sao rồi mới hé lộ ý
mình.
Sự ngoại lệ đáng chú ý của tính thụ động nói chung này cho thấy
định nghĩa thông dụng và hạn hẹp về quyền lợi của Trung Quốc: Đài Loan, Tây
Tạng, Tân Cương, nhân quyền và các lãnh thổ tranh chấp. Về những vấn đề này thì
Bắc Kinh rất mực thận trọng và đối ngoại rất mạnh mẽ, nhưng những cố gắng để
biện hộ cho quyền lợi của họ thì thường lại vụng về và cuối cùng lại phản tác
dụng đến hình ảnh và mục đích của mình. Ngoài việc bảo vệ những quyền lợi hạn
hẹp của mình thì đối ngoại của Trung Quốc vẫn rất thụ động so với một nước lớn
và quan trọng như vậy.
Khi cùng nhau điều hành thế giới, là phải đóng góp cho lợi ích
chung một tỉ lệ với tổng tiềm lực của một nước, thì hành vi của Bắc Kinh thường
song song với sự thụ động và suy nghĩ hạn hẹp từ chính sách đối ngoại của họ.
Trung Quốc quả có đóng góp nhiều mặt trong việc điều hành thế giới: Lưc Lượng
Gìn Giữ Hòa Bình (UN peace keeper), triển khai hoạt động chống cướp biển tại
vịnh Aden, các hoạt động chống khủng bổ ở khu vực Trung Á, chống phổ biến
nguyên liệu hạt nhân, sức khỏe cộng đồng, hỗ trợ thảm họa và chống tội phạm
quốc tế. Trong những lãnh vực này thì Trung Quốc cũng có công. Tuy nhiên, Trung
Quốc có thể và nên làm nhiều hơn thế; vẫn đang là “đánh với hạng dưới cân”
(boxing, punches well below its weight) bằng cách không đóng góp theo tỉ lệ với
kích cỡ, sự giàu có và thực lực ảnh hưởng của mình. Thế giới nên trông chờ và
đòi hỏi nhiều hơn từ Trung Quốc.
Tại sao chính sách tham gia điều hành thế giới của Trung Quốc lại
hạn chế như vậy? Có 3 lí do chính. Đầu tiên, bên trong Trung Quốc tồn tại một
sự nghi ngờ sâu sắc về cái giả thuyết tươi đẹp và khái niệm căn bản của việc
điều hành thế giới, xem nó như là một cái bẫy hiện đại của Tây phương (đặc biệt
là Mĩ) để làm “chảy máu” Trung Quốc bằng cách lôi họ vào các cuộc khủng hoảng
và các địa điểm mà họ không có quyền lợi quốc gia trực tiếp - và theo đó mà
phân tán tài nguyên rồi kìm hãm sự trỗi dậy của họ. Thứ hai, dân Trung Quốc sẽ
phê bình chính quyền vì phân bổ tài nguyên ra nước ngoài khi mà nạn đói nghèo
và các vấn đề nhức nhối khác vẫn đang hiện hữu tại bản quốc. Và thứ ba là Trung
Quốc có kiểu tiếp cận “hợp đồng” khi sử dụng nguồn lực của mình, đặc biệt là
khi dính tới tiền. Tánh này vốn từ trong văn hóa buôn bán của người Trung Quốc
mà ra, nhưng rồi lan cả những mảng khác trong ứng xử của Trung Quốc. Người
Trung Quốc muốn biết chính xác là họ sẽ được lại cái gì và khi nào cho một
khoản đầu tư. Do vậy, cả cái chủ nghĩa đạo đức và đóng góp không cầu thân cho
lợi ích chung là một điều xa lạ với nhiều người Trung Quốc.
Kết quả là, trong lĩnh vực đối ngoại - song phương, đa phương và
điều hành thế giới - Bắc Kinh vẫn cho thấy một sự thụ động rõ rệt và miễn cưỡng
tham gia. Còn lâu mới trở thành “cổ đông trách nhiệm” mà ông Robert Zoellick
phát biểu năm 2005. Chính sách của Bắc Kinh vẫn chỉ hạn hẹp về quyền lợi bản
thân, và sự tham gia của Bắc Kinh với các vấn đề thế giới vẫn là tối thiểu và
chiến thuật, không phải là quy chuẩn và chiến lược. Mục đích của chính sách đối
ngoại của Bắc Kinh, thực tế mà nói, là kiếm tiền. Xem kĩ các thành phần trong
phái đoàn chính phủ hay chủ tịch Trung Quốc sẽ thấy một số lượng lớn các CEO
của các tập đoàn - đi tìm nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, các cơ hội buôn
bán và đầu tư. Chính sách đối ngoại kiểu con buôn như vậy không giúp Bắc Kinh
có được sự tôn trọng từ quốc tế, mà thực tế là đang có gia tăng các chỉ trích
và dội ngược trên khắp thế giới (đang chú ý nhất là Châu Phi và Mĩ La Tin).
2- Tiềm lực quân sự của
Trung Quốc là một mặt khác màTrung Quốc là một thế lực cục bộ: ngày càng mạnh
trong khu vực, nhưng không hề toàn cầu. Trung Quốc không có khả năng phóng sức
ra khỏi khu láng giềng châu Á (ngoài các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, chương
trình không gian và tiềm lực chiến tranh mạng), và ngay cả trong Châu Á thì khả
năng triển khai sức mạnh cũng bị hạn chế. Chưa hẳn là Trung Quốc có thể triển
khai năng lực quân sự ngoài phạm vi 500 hải lý từ lãnh thổ của họ (như trong
các tranh chấp biển Hoa Đông và Hoa Nam) và duy trì đủ lâu để thắng thế trong
các mâu thuẫn. Lực lượng quân sự của họ không được thực nghiệm chiến trường,
chưa đánh một trận nào từ năm 1979.
Để nói cho chắc, quân sự Trung Quốc đã được cải thiện một cách đều
đặn trong 20 năm. Giờ đây họ có quỹ quân sự lớn thứ 2 thế giới (131.6 tỉ đô
trong năm 2014), lượng lính thường trực lớn nhất, nhiều vũ khí hiện đại, một
hải quân đang giong buồm ngày càng xa hơn đến phía tây Thái Bình Dương và thi
thoảng cả Ấn Độ Dương, và một chiếc tàu sân bay khiêm tốn. Vậy nên quân sự
Trung Quốc không phải ngon xơi. Nó có khả năng phòng vệ quê hương mình, và giờ
thì có thể quậy nên một cuộc va chạm thắng lợi với Đài Loan (đó là khi không có
một cuộc can thiệp nhanh chóng và toàn diện của Mĩ). Trung Quốc cũng đang được
xem là một thế lực quân sự khu vực châu Á và do đó đang thay đổi cán cân sức
mạnh trong khu vực, nhưng quân đội Trung Quốc vẫn không có khả năng phát triển
sức mạnh toàn cầu. Trung Quốc không có căn cứ nước ngoài, không có hậu cần
đường dài và tuyến thông tin, và vệ tinh phủ sóng toàn cầu cơ bản. Hải quân vẫn
chủ yếu chỉ là một lực lượng duyên hải ven biển, không quân không có khả năng
đánh xa và chưa chứng minh được năng lực tàng hình, và lực lượng bộ binh không
được thiết kế triển khai nhanh.
Hơn nữa, về chiến lược, thì Trung Quốc có thể được gọi là “thế lực
cô đơn” - thiếu bạn thân và không có đồng minh. Ngay cả mối quan hệ thân thiết
nhất của Trung Quốc (với Nga), các yếu tố ngờ vực và nghi ngại mang tính lịch
sự thấm xuyên qua vẻ ngoài dường như rất hòa hợp giữa quan hệ hai nước. Không
một quốc gia nào tìm kiếm bảo an và bảo vệ từ Bắc Kinh (có lẽ ngoại trừ Pakistan )
- điều này cho thấy một sự thiếu hụt trầm trọng sự ảnh hưởng chiến lược của một
thế lực lớn. Trái lại, các nước châu Á khác đang đắp nặn tuyến phòng thủ với Mĩ
và cải thiện sự phối hợp với nhau - chính xác là do sự mập mờ và đe dọa mà họ
thấy ở Trung Quốc.
3- Xoay từ sức mạnh cứng
sang sức mạnh mềm, Trung Quốc tích lũy như thế nào để thành một thế lực toàn
cầu? Không ổn. Không có một xã hội nào khác học hỏi văn hóa Trung Quốc, không
có nước nào khác đang tìm cách bắt chước hệ thống chính trị của Trung Quốc, và
mô hình kinh tế của họ cũng không thể tái bản đâu khác được. Mặc dù đã đổ ra
rất nhiều công sức và một lượng lớn tài nguyên để xây dựng sức mạnh mềm và cải
thiện hình ảnh quốc tế của minh từ năm 2008, điều tiếng quốc tế về Trung Quốc
vẫn là từ lẫn lộn cho tới tiêu cực. Khảo sát ý kiến cộng đồng cho thấy khắp nơi
trên thế giới khái niệm về Trung Quốc vẫn hỗn tạp, vừa tăng vừa giảm với đầy
các rắc rối.
Trung Quốc không phải là cái nam châm thu hút kẻ khác để cạnh
tranh - văn hóa, xã hội kinh tế và chính trị. Vấn đề của Trung Quốc trong 4
mảng trên là riêng biệt. Trung Quốc thiếu sự hấp dẫn chung khi vượt ra khỏi
biên giới hoặc các cộng đồng thiểu số của mình. Phần lớn bởi vì tính độc nhất
của kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của Trung Quốc, nên sức mạnh mềm toàn
cầu của Trung Quốc chỉ từ yếu đến không tồn tại.
Các sản phẩm văn hóa của Trung Quốc - nghệ thuật, phim ảnh, văn
chương, âm nhạc, giáo dục - vẫn ít được biết tới bên ngoài Trung Quốc và không
dựng nên một xu hướng toàn cầu nào. Đáng ngưỡng mộ là vậy, sự phát triển kinh
tế của Trung Quốc là một sản phẩm của các thành phần không thể tái bản ở các
nước khác (kinh tế quy mô cạnh tranh, hoạch định quốc gia kiểu Xô Viết, doanh
nghiệp cá nhân, một lực lượng lao động lớn và kỉ luật, ra đời nghiên cứu – và -
phát triển và nguồn vốn ngoại khổng lồ). Ngay cả khi “mô hình Trung Quốc” tồn
tại (còn đang tranh cãi), thì nó cũng không thể xuất khẩu được, vì tổ hợp các
yếu tố này không tìm thấy nơi nào khác. Hệ thống chính trị của Trung Quốc tương
tự như một hỗn hợp các ý tưởng biến thể và chọn lọc từ chủ nghĩa Cộng Sản Mác,
chủ nghĩa độc trị kiểu Châu Á, Khổng giáo và an ninh nội địa chặt chẽ. Sự đặc
biệt này không thể nhân bản được - không có nước nào định làm vậy, và cũng
không ai thấy có người ngoại quốc nào muốn tị nạn chính trị hay làm công dân
của PRC. (CHDCNDTQ)
4- Còn về sức mạnh kinh tế của Trung Quốc thì sao? Đây là lĩnh vực
mà người ta có thể xem Trung Quốc là một thế lực toàn cầu và là người điều
chỉnh xu hướng - nhưng tác động của Trung Quốc lại rất hạn chế so với dự đoán.
Cũng như các lĩnh vực khác, rất ấn tượng về số lượng nhưng yếu về chất lượng.
Trung Quốc là quốc gia giao dịch lớn nhất thế giới, nhưng xuất khẩu chủ yếu là
hàng tiêu dùng cấp thấp; sản phẩm của họ ít được nhận biết thương hiệu từ quốc
tế; chỉ có trên đầu ngón tay những tập đoàn đa quốc gia đang làm ăn thành công
tại nước ngoài; tổng dự trữ vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ODI) của Trung
Quốc chỉ đứng hạng 17 toàn thế giới; quỹ viện trợ quốc tế của Trung Quốc chỉ
bằng một góc của Mĩ, Châu Âu, Nhật hay là Ngân Hàng Thế Giới.
Khi đánh giá về chất lượng thay vì số lượng thì hồ sơ kinh tế của
Trung Quốc không mấy ấn tượng. Vẫn là một nên kinh tế gia công lắp ráp - không
phải là sáng tạo và thúc đẩy. Hâu hết các sản phẩm xuất khẩu được gia công hoặc
sản xuất ở Trung Quốc đều được kiến tạo ở nơi khác. Hành vi ăn cắp bản quyền
một cách hung hăng của Trung Quốc và chính sách “thúc đẩy cách tân nội địa”
(cái mà ngốn hàng tỉ đô mỗi năm cho việc nghiên cứu và phát triển quốc nội mỗi
năm) của chính quyền là sự thú nhận thất bại trong việc sáng tạo. Điều này có
thế, và có lẽ là sẽ, thay đổi theo thời gian - nhưng tới nay thì TQ không đang
đặt tiêu chuẩn quốc tế cho bất cứ công nghệ hay dòng sản phẩm nào (hoặc là
trong khoa học thiên nhiên, y khoa, khoa học xã hội hay nhân chủng học). Tương
tự, Trung Quốc chỉ có hai trường đại học nằm trong top 100 trường thế giới, dựa
theo Times Higher Education World University Rankings 2013-2014.
Nếu Trung Quốc muốn thúc đẩy cải tiến, họ sẽ, đương nhiên, là phải
đầu tư nhiều thêm vào quỹ nghiên cứu và phát triển. Dựa theo National Science
Foundation năm 2009 Trung Quốc chỉ tiêu 1.7% GDP của mình vào nghiên cứu và
phát triển, so với 2.9% của Mĩ, 2.8% của Đức và hơn 3.3% của Nhật. “Cường độ
nghiên cứu” của hoạt động nghiên cứu và phát triển của Trung Quốc thậm chí còn
không vào top 20 của thế giới, khi mà 80% dành để phát triển sản phẩm và chỉ 5%
cho nghiên cứu cơ bản. Sự thiếu hụt Giải Nobel cũng là một thước đo. Giữa năm
1949 cho đến 2010, có 584 giải Nobel được trao. Người Trung Quốc được 10 giải
(8 giải khoa học), nhưng hết 8 trong số đó là hoạt động tại nước ngoài. Có 2
ngoại lệ là Liu Xiaobo thắng Nobel hòa bình năm 2010 và Mo Yan thắng giải văn
chương năm 2011. Trích dẫn trong các bài viết chuyên nghiệp cũng là một thước
đo khác. Những bài được trích dẫn nhiều nhất thế giới (bao gồm tất cả các lĩnh
vực), học giả Trung Quốc chỉ đạt 4% trong khi Mĩ tới 49%.
Kết quả của chứng “thâm hụt canh tân” kinh niên của Trung Quốc là
nước này giờ đây sa lầy vào “bẫy thu nhập trung bình” muôn thuở. Cách duy nhất
để thoát ra là canh tân - như Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore và Đài Loan đã chứng
minh trước đó. Và điều này cần nhiều hơn là đầu tư của chính quyền vào nghiên
cứu và phát triển - nó cần một hệ thống giáo dục đặt tư duy phản biện (critical
thinking) và tự do khám phá (freedom of exploration) làm tiền đề. Điều này lại
cần một hệ thống chính trị tương đối cởi mở và dân chủ và không có cắt dán hay
“vùng cấm” trong lĩnh vực nghiên cứu. Học sinh và các trí thức phải được tán
thưởng- không phải bị truy lùng và trừng phạ t-vì thách thức những khái niệm
phổ thông và mắc lỗi. Cho đến khi điều này xảy ra, Trung Quốc sẽ luôn bị kẹt
trong bẫy thu nhập trung bình - sản xuất và lắp ráp nhưng không phải sáng tạo
và sáng chế.
Với bối cảnh này, gã khổng lồ giao dịch Trung Quốc yếu hơn nhiều
so với vẻ ngoài của mình. Những yếu điểm tương tự cũng được thấy trong vốn ODI
(oversease direct investment; vốn đầu tư ra nước ngoài) của Trung Quốc. Mặc dù
chính quyền Trung Quốc đã chú trọng hàng đầu việc đưa các doanh nghiệp Trung
Quốc ra thế giới, nhưng cho tới nay thì vốn đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc
vẫn còn khá nhỏ. Như đã nhắc đến phía trên, tổng dự trữ ODI khó mà đưa Trung
Quốc vào top 20 thế giới, mặc cho nguồn tiền xuất ngoại (annual outflows) hàng
năm đang tăng nhanh và đứng thứ 3 thế giới (88.2 tỉ Đô trong năm 2012). Vẫn chỉ
bằng một phần tư vôn ODI của Mĩ cùng kì.
Quan trọng hơn nữa, như những mảng khác về hồ sơ toàn cầu của
Trung Quốc, cần phải đào xuyên qua những thống kê về số lượng và hỏi những câu
mang tính chất lượng: nguồn tiền ấy đi đâu, và có phải là đầu tư thật hay
không? Các điểm đến trên thế giới và cấu thành của vôn ODI của Trung Quốc đã
chuyển hướng nhanh chóng từ năm 2011, nhưng một tỉ lệ lớn danh mục vốn chảy vào
những nơi như British Virgin Islands và Grand Cayman Islands (xếp hạng thứ 2 và
3 những nơi nhận vốn nhiều nhất năm 2011). Thế mà một số lại không phải thực
chất là đầu tư nước ngoài - mà lại là tiền được tuồn ra những bến an toàn. Điều
này không chỉ đúng với chính quyền và các công ty Trung Quốc mà còn cả tài sản
cá nhân. Sổ Xanh (Blue Book) thường niên năm 2014 về Di Cư Quốc Tế của Trung
Quốc, biên soạn bởi Trung Tâm về Trung Quốc& Toàn Cầu Hóa, gần đây báo cáo
rằng từ năm 1990 tổng cộng 9.3 triệu người Trung Quốc di cư ra nước ngoài, mang
theo 2.8 nghìn tỉ Nhân Dân Tệ (46 tỉ Đô La Mĩ). Đây không phải là một sự phát
triển mới, nhưng lại là một xu hướng đang gia tăng trong thập niên vừa qua. Khi
một số lớn tầng lớp tinh túy của kinh tế một nước bỏ đi như vậy và rất nóng
lòng bảo vệ khoản tiết kiệm tài chính của mình ở nước ngoài, nó chứng tỏ rằng
họ thiếu tự tin vào hệ thống chính trị và kinh tế nước nhà.
Dù thế, gần đây hồ sơ vốn ODI và vệt chân địa lý của Trung Quốc đã
thay đổi. Trung Quốc đang tung hoành với các đầu tư và mua bán khắp Châu Á, Mĩ
La Tin, Châu Âu và Mĩ. Các tay buôn Trung Quốc đang chộp giật đủ loại tài sản -
tài sản công dân và tài sản thương mại, nhà máy, khu công nghiệp, các cơ sở hạ
tầng nghiên cứu và phát triển, trang trại, rừng, khoáng sản, dầu và khí đốt,
cùng nhiều tài nguyên khác. Do đó mà hồ sơ đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc
đang thay đổi nhanh chóng, nhưng tác động của nó vẫn mơ hồ.
Còn về các tập đoàn đa quốc gia Trung Quốc thì sao? Sức cạnh tranh
tại ngoại của họ ra sao? Cũng như trong khác mục khác, có nhiều điểm yếu hơn là
điểm mạnh. Trên bề mặt, xét theo đánh giá xếp hạng của Fortune Global 500 (500
doanh nghiệp hàng đầu thế giới), các công ty Trung Quốc chỉ đứng sau các tập
đoàn đa quốc gia Mĩ. Nhưng những xếp hạng này được tính dựa trên tổng doanh thu
và lợi nhuận cơ bản - không phải điểm mà công ty kiếm ra tiền. Khi khảo sát các
công ty Trung Quốc trong danh sách năm 2013, dễ nhận thấy rằng rất ít công ty
hoạt động tại nước ngoài và chỉ đếm trên đầu ngón tay các công ty thu hơn nửa
doanh thu từ nước ngoài. Cho nên đây không thật là những tập đoàn đa quốc gia,
mà là những tập đoàn diễn viên nội địa.
Nhiều doanh nghiệp rất tha thiết để vươn ra toàn cầu, nhưng những
người cố để đi xa cỡ đó lại có hành trình không ổn lắm. Có nhiều câu chuyện
thất bại hơn là thành công về các tập đoàn tham vọng của Trung Quốc. Các thương
nghiệp Trung Quốc thường sẩy chân khi lãnh đạo tập đoàn của họ đã không làm
trước khảo sát tiền khả thi (due diligence) hoặc bị va chạm văn hóa tập đoàn.
Chung quy lại, nhược điểm chính của các tập đoàn đa quốc gia Trung Quốc là nhân
lực - cụ thể là vấn đề quản trị. Chỉ có một vài người quản lý (managers) quý
giá là đa ngôn ngữ và đa văn hóa, và các công ty Trung Quốc thường không thuê
người nước ngoài với kĩ năng như vậy vào các vị trí quản lí cấp cao (ngoại trừ
Huawei và Haier không theo luật này). Các công ty Trung Quốc và sự quản trị của
họ nhiều lần bộc lộ sự bất lực để thoát khỏi văn hóa tập đoàn và cách làm ăn
của chính mình. Bởi vì họ thích hệ thống cấp bậc và các vai trò rõ ràng tại nơi
làm việc, người Trung Quốc thường không quen cấu trúc quản lý “phẳng” với chủ
trương phân quyền và sáng tạo cá nhân. Các xu hướng này cứ tạo nên các cuộc va
chạm văn hóa liên hồi giữa các thương nghiệp Trung Quốc và các công ty phương
Tây. Các công ty Trung Quốc cũng cho thấy những khó khăn trong việc thích nghi
với các luật lệ, quản lý, thuế và môi trường chính trị nước ngoài. Sự minh bạch
và quản lý tập đoàn hầu như không phải là đặc tính của các công ty Trung Quốc -
nơi mà quá trình ra quyết định thường là mập mờ, cách làm ăn hay dính tới tham
nhũng và các thủ tục kiểm toán thì hay có gian lận. Nhiều công ty Trung Quốc đã
bị phát hiện gian lận thông tin bằng các công cụ điều chỉnh chứng khoán tại Mĩ
trước khi IPOs. (Initial public offerings; chào bán cổ phiếu lần đầu)
Các tập đoàn Trung Quốc còn thiếu sức cạnh tranh khi bàn về thương
hiệu thế giới. Chỉ có đếm trên đầu ngón tay các công ty Trung Quốc có khả năng
đưa thương hiệu của mình thành quốc tế: bia Tsingtao, điện gia dụng Haier, viễn
thông Huawei, Air China ,
xe hơi Geely và một ít số khác. Nhưng không có lấy một công ty Trung Quốc nào
vào được top 100 toàn cầu của Business Week/Interbran.
Các thước đo khác về năng lực nội địa của Trung Quốc cũng không
xếp hạng cao mấy và tích cực trên thế giới. Năm 2014, Freedom House xếp hạng
Trung Quốc thứ 183 trên tổng 197 nước về tự do báo chí. Từ năm 2002, tổng hợp
của Ngân Hàng Thế Giới về Chỉ Số Quản Trị Thế Giới (World Bank’s composite
Worldwide Governance Indicators) đã nhất quán xếp Trung Quốc vào hạng 30 trong
việc ổn định chính trị và quản lí tham nhũng, hạng 50 trong hiệu quả chính
quyền, hạng 40 trong chất lượng quản lí và luật lệ, và dưới 10 về khả năng giải
trình (minh bạch). (*ở đây tác
giả dùng percentile, nghĩa là so sánh trong vòng 100 nước, đứng thứ 50 là trung
bình, hơn 50 nghĩa là chỉ số cao hơn 50 nước và ít hơn 50 là ám chỉ tệ hại). Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới xếp hạng
Trung Quốc chỉ thứ 29 trên toàn thế giới vào mục chỉ số Khả Năng Cạnh Tranh
Toàn Cầu năm 2013, cùng với hạng 68 mục tham nhũng và 54 mục đạo đức kinh
doanh. Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế thậm chí xếp hạng Trung Quốc còn thấp hơn (thứ
88) trong chỉ số tham nhũng quốc tế năm 2013. Trong những đánh giá và phân mục
này thì Trung Quốc hầu như đang tuột dốc trong thập niên qua. Bằng những thước
đo trên và khác nữa, rõ ràng rằng sự hiện diện cùng hình ảnh của Trung Quốc
trên thế giới không thể lẫn lộn hơn. Trong nhiều hạng mục thì Trung Quốc rơi
vào nhóm các nước trình diễn tệ hại nhất và ít được tôn trọng nhất trên thế
giới.
Báo cáo của Phát Triển Con Người Liên Hợp Quốc (United Nations
Human Development) cho thấy rằng mặc cho sự tiến bộ đáng kể và đáng nể của nền
kinh tế xã hội (socioeconomic) mà Trung Quốc đạt được từ những năm 1980, nước
này vẫn phần nhiều là một nước đang phát triển. Nước CHDCNDTQ đứng thứ 101 trên
chỉ số tổng thể, trong 187 nước được khảo sát. Thu nhập bình quân đầu
người giờ đây gần 8,000 Đô trên phương diện sức mua tương đương
(purchasing-power-parity), nhưng 13.1 phần trăm dân số vẫn sống dưới 1.25 đô
một ngày. Trong các mảng tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cung
cấp chăm sóc sức khỏe, chất lượng giáo dục và bất bình đẳng, Trung Quốc vẫn
chậm hơn nhiều các nước công nghiệp. Ô nhiễm và nhiễm độc môi trường của Trung
Quốc giờ đây là tệ nhất thế giới và đang góp phần vào tỉ lệ ung thư đang gia
tăng. Dù cho gần đây chính quyền có cô gắng để mở rộng phân phối, bảo hiểm chăm
sóc sức khỏe phổ thông và thảm họa (catastrophic health care and insurance),
hầu hết người Trung Quốc vẫn phải đối mặt nhiều bất ổn khi mắc bệnh. Hệ số Gini
(đo chỉ sô bình đẳng thu nhập, 0 tượng trưng cho sự bình đẳng tuyệt đối và 1
tượng trưng cho sự bất bình đẳng tuyệt đối) của Trung Quốc là 0.5, vào nhóm cao
nhất thế giới. Trường tiểu học và trung học của Trung Quốc cho ra những kết quả
kiểm tra cấp thế giới (world-class test results), nhưng hệ thống đại học còn
thua xa các nước lãnh đạo thế giới.
Những kiểm chứng này không nhằm để xem nhẹ những thành tựu phát
triển thần kì của Trung Quốc trong 3 thập kỉ qua, nhưng nó chỉ là một hồi
chuông cảnh tỉnh lại rằng Trung Quốc còn chưa đâu gần top thế giới trong nhiều
hạng mục phát triển.
Đây là một bức tốc họa (?) về Trung Quốc ngày nay. Mười hay hai
mươi năm nữa kể từ giờ vị trí trên toàn cầu của Trung Quốc có thể sẽ tiến bộ
hơn nhiều trong các lĩnh vực này và có thể nó sẽ vận hành trên cơ sở toàn cầu
như Mĩ, nhưng bây giờ Trung Quốc nhiều nhất chỉ là một thế lực cục bộ. Nhưng
không nên đơn thuần kết luận là quỹ đạo tăng trưởng của Trung Quốc sẽ vẫn không
thuyên giảm. Có thể, nhưng cũng còn hai khả năng khác- là trì trệ và thụt lùi.
Rất nhiều nhà quan sát Trung Quốc (China watchers) đi đến kết luận
rằng nước này đang đến điểm giới hạn ở nhiều mặt. Tổng tăng trưởng đang chững
lại (do chi phí sản xuất đang gia tăng và lợi thế so sánh đang giảm) và chính
quyền chật vật duy trì 7% tốc độ tăng trưởng hàng năm cần thiết để duy trì việc
làm, thu hút thêm nhân công vào lực lượng lao động và duy trì ổn định xã hội.
Cố gắng là thế, chính quyền Trung Quốc đã không thể đạt được sự chuyển mình từ
kinh tế định hướng - xuất khẩu và đầu tư sang kinh tế dựa vào tăng trưởng tiêu
thụ nội địa và “kinh tế tri thức” sáng tạo như đã tuyên bố. Sản xuất đang không
gia tăng một cách đáng kể chuỗi giá trị và nấc thang công nghệ, và yếu điểm bẫy
thu nhập trung bình đang dần lộ ra (và có thể sẽ thành trạng thái vô định). Nợ
địa phương đang nhức nhối và nhiều cơ quan địa phương đang loạng choạng bên bờ
vực vỡ nợ. Bất bình đẳng xã hội đang ngày càng gay gắt, tham nhũng tràn lan từ
chính quyền tới xã hội, đầy rẫy bức xúc trong mọi mặt lĩnh vực xã hội, người
giàu thì đang tháo chạy khỏi nước với số lượng gia tăng, tầng lớp trung lưu thì
trì trệ, và hệ thống chính trị vẫn cứng nhắc và đàn áp. Trong khi đó, nước này
cũng không thực hiện các cải cách chính trị và tư pháp phù hợp để theo đuổi
giai đoạn tiếp theo của tăng trưởng vì điều này sẽ trực tiếp đụng chạm đến
quyền lực độc tài của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Vài nhà Hán Học tranh luận rằng chính Đảng Cộng Sản Trung Quốc là
trở ngại chính của sự phát triển và tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc.
Đảng này là một thể chế ngày càng bấp bênh, xơ cứng và mỏng manh và đã tê liệt
từ năm 2008. Một phần lí do cho sự tê liệt này từ sự chuyển giao lãnh đạo năm
2012 và cuộc đấu tranh phe phái để dẫn đến điều này (bao gồm cả vụ Bạc Hy Lai),
nhưng cũng có dính dáng tới những bất ổn gia tăng trong nước (cụ thể là Tây
Tạng và Tân Cương). Những yếu tố khác cũng góp phần vào các hành động triệt
tiêu và đàn áp của Đảng trong 5 năm qua, bao gồm cả nỗi lo từ vụ Mùa Xuân Ả
Rập, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy những bước tiến trong cải cách chính trị từ
khi thay đổi lãnh đạo và Tập Cận Bình lên nắm quyền. Trái lại, đàn áp chính trị
còn khốc liệt hơn từ khi Tập đảm nhiệm. Ngay cả Hội Nghị Lần Ba tháng 11 năm
2013 được tung hô như là một bước đột phá trong cải cách, cho tới nay vẫn có vẻ
phóng đại hơn là tiến triển.
Đây là một ly Cốc Tai đầy nguy hiểm mà các nhà quan sát Trung Quốc
thấy hấp dẫn ở nước này. Một chuỗi các vấn đề phơi bày và oái ăm mà nhân dân và
chính quyền nước này phải giải quyết. Vì thế, các nhà quan sát không nên mù
quáng mà nhận định rằng trong tương lai Trung Quốc sẽ phô bày thuyết duy lực
của 30 năm vừa qua, hay con đường đi đến địa vị thế lực toàn cầu của nó sẽ nhất
thiết phải tiếp tục.
--------
David Shambaugh là giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế
và là trưởng ban Chương Trình Chính Sách Trung Quốc tại Trường Quan Hệ Quốc Tế
Elliott tại đại học George Washington. Ông cũng là một thành viên cao cấp không
thường trực trong các nghiên cứu Chương trình Chính sách đối ngoại và Trung tâm
Nghiên cứu Chính sách Đông Á tại Viện Brookings. Cuốn sách gần đây nhất của ông
là Trung Quốc đi toàn cầu: Sức mạnh cục bộ. (Oxford University
Press, 2013).
HHG.
Thật ra suy cho cùng họ tập quậy VN bằng giàn khoan củng chỉ thể hiện 1 phần tư tưởng nước lớn của lảo mao ! chính ngay trong nước trung khựa ngày nay củng đả quá nhiều bất ổn ,giàu nghèo ,nhóm lợi ích ,ăn cướp đất đai của dân bằng hiến pháp và qua lực lương chuyên chính vô sản ,ông ta đánh tham nhủng ,nhưng chỉ mượn cớ để giử ngôi vị của mình ,triệt hạ nhửng kẻ không cùng phe cánh và diệt trừ nhửng thế lực chống đối trong đảng quá mạnh với bề dày thành tích của nhửng cán bộ lảo thành và tiền kháng chiến gia sản họ tập có được từ đâu ,nhân dân tàu khựa củng hiểu quá rỏ không ngoài quy luật con ông cháu cha ,nhửng công ty gia dình của ông với nhửng tài sản kếch sù là của nhân dân trung hoa mang đến ,nhưng cái dở của ông là không chắt lọc bài học xương máu của cha ông tàu cộng lao vào đối đầu với nhân dân VN ,cái sẻ giết chết lảo ma đầu nầy sẻ là bài học mà nhân dân VN sẻ dạy cho ông và tập đoàn bành trướng bắc kinh
RépondreSupprimer