Việt Anh
Giáo sư Alexander Vuving. Ảnh: Nhân vật cung cấp |
Giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, trao đổi với VnExpress về những vấn đề nội tại của Trung Quốc và dự báo diễn biến sắp tới.
- Tôi không chắc các vụ việc cụ thể nêu trên có liên quan trực tiếp gì
đến nhau, nhưng nếu chúng có chung một nguyên nhân sâu xa thì nguyên nhân đó
nằm ở sự phát triển hết sức thiên lệch của Trung Quốc.
Trong hơn 30 năm qua Trung Quốc đã trở thành "công xưởng" của thế giới, sản xuất hàng hoá vừa nhiều, vừa rẻ nên đã
tràn ngập toàn thế giới. Nhưng khi tìm cách hạ giá thành sản phẩm thì người ta
đã bỏ qua các tiêu chuẩn về an toàn, trong đó có an toàn của chất thải ra môi
trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn lao động. Hệ thống quản lý của Trung
Quốc, phần vì chạy theo tăng trưởng cao, phần vì quan liêu, vô trách nhiệm,
phần do thông đồng với doanh nghiệp, nên đã không thiết lập được kỷ luật về an
toàn, chất lượng, và môi trường.
Sản phẩm giá rẻ là một chìa khoá mở cửa con đường tăng trưởng cao của Trung
Quốc. Một trong những công cụ quan trọng mà Trung Quốc sử dụng để giữ cho sản
phẩm của mình có giá rẻ trên thị trường thế giới là tỷ giá hối đoái. Vừa qua
Trung Quốc hạ giá đồng NDT là một cách đối phó với sự đổ vỡ trên thị trường
chứng khoán trong nước. Khi thị trường chứng khoán đổ vỡ, nền kinh tế sẽ chững
lại, hàng hoá không bán được nhiều, phá giá đồng nội tệ là một cách để đẩy tiêu
thụ hàng hoá ra thị trường ngoài nước, khơi luồng lưu thông cho nền kinh tế.
Một thiên lệch nữa trong phát triển ở Trung Quốc là chủ yếu chỉ tăng trưởng
kinh tế mà không có nhiều tiến bộ xã hội đi kèm, nhất là trong vấn đề chung
sống giữa các sắc dân có xung đột về lịch sử và văn hoá. Trong một thế giới mà
thông tin lan toả rất nhanh, điều này rất dễ làm gia tăng các xung đột sắc tộc
và tôn giáo. Thế nhưng hệ thống quản lý của Trung Quốc không có cơ chế hiệu quả
để lắng nghe tâm tư của các nhóm người yếu thế và để điều hoà các lợi ích khác
biệt trong xã hội.
- Đánh giá chung của ông về giai đoạn
phát triển hiện nay của Trung Quốc?
- Trung Quốc đang đi vào một giai đoạn bất ổn hơn trước rất nhiều. Lý
do chính là vì nền kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc, chuẩn bị kết thúc thời kỳ
tăng trưởng cao. Một công trình nghiên cứu của tôi về tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc cho thấy là thời kỳ tăng trưởng cao, với tốc độ tăng trưởng bình
quân 7-10%/năm, sẽ chấm dứt trong khoảng 5 năm tới. Sau đó tốc độ tăng trưởng
bình quân của Trung Quốc sẽ chỉ còn khoảng 4-6%/năm.
Khi nền kinh tế còn tăng trưởng cao thì nhiều vấn đề và mâu thuẫn sẽ được
xu thế đi lên của nền kinh tế khoả lấp. Nhưng khi nền kinh tế giảm tốc và tăng
trưởng chậm thì các vấn nạn sẽ bung ra và gây sự bất ổn.
- Vấn đề tiền tệ, kinh tế suy giảm với
chiến dịch chống tham nhũng "đả hổ diệt ruồi" có sự liên quan như thế
nào?
- Tôi không nghĩ chiến dịch đả hổ diệt ruồi của Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình là một nguyên nhân của kinh tế suy giảm và cuộc khủng hoảng tiền
tệ. Nó có gây ra xáo trộn chính trị nhưng sự suy giảm kinh tế, như tôi nói ở
trên, là một xu thế khách quan. Trong xu thế đó, cuộc khủng hoảng tiền tệ sớm
muộn cũng sẽ xảy ra.
Chiến dịch chống tham nhũng cũng có thể có mối liên hệ nhất định với kinh
tế suy giảm. Một số người chủ trương chống tham nhũng đã nhìn thấy trước sự suy
giảm sắp đến của nền kinh tế, và họ nghĩ rằng chống tham nhũng sẽ làm lành mạnh
nền kinh tế, khiến cho cuộc "hạ cánh" trở nên nhẹ nhàng hơn. Nói cách
khác, chống tham nhũng sẽ giúp quá trình suy giảm kinh tế tự nhiên của Trung
Quốc diễn ra êm ả hơn.
- Những rủi ro tiềm ẩn mà Trung Quốc
phải đối diện trong thời gian tới là gì, cả về kinh tế và chính trị?
- Nguy cơ lớn nhất đối với kinh tế và chính trị Trung Quốc trong
khoảng một đến hai thập niên tới là một cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ,
ngân hàng kéo theo những biến động lớn về chính trị, xã hội.
Sự tăng trưởng ngoạn mục của Trung Quốc trong hơn 30 năm qua một phần lớn
là nhờ nằm trên một núi tiền tiết kiệm khổng lồ của dân chúng. So với các nước
khác, tính theo tỷ lệ trên GDP thì Trung Quốc tiêu dùng cực kỳ thấp, tiết kiệm
cực kỳ cao, và do đó đầu tư cực kỳ nhiều. Doanh nghiệp vay tiền tiết kiệm của
dân chúng với giá rẻ, lại được giá nhân công rẻ và nhờ chính sách cưỡng bức
chuyển giao công nghệ nên hàng hoá Trung Quốc bán ra rất rẻ. Đó là một vế trong
mô hình tăng trưởng của Trung Quốc.
Một vế khác là kỷ luật đầu tư rất lỏng lẻo. Tiền vay được dễ dàng nên đầu
tư tràn lan dẫn đến một núi nợ xấu không thể trả được mà phải đảo nợ, giãn nợ,
nương vào tăng trưởng kinh tế để thu hẹp lại. Khi kinh tế suy giảm thì khả năng
trả nợ sẽ giảm theo. Mấy năm vừa qua gặp lúc kinh tế khó khăn, Trung Quốc ra
sức bơm tiền vào để chống đỡ, nên tuy kinh tế không bị suy giảm nhiều nhưng núi
nợ xấu càng phình to hơn. Với cách làm này thì chuyện khủng hoảng tài chính,
tiền tệ chỉ là vấn đề thời gian.
Hiện Trung Quốc vẫn chống đỡ được những cuộc khủng hoảng này vì người dân
vẫn tiết kiệm được nhiều, tốc độ tăng trưởng tuy không còn ở mức 10% như các
năm trước nhưng vẫn còn ở mức 7%. Trong 10 năm tới, với tỷ lệ người già trên số
dân lao động tăng nhanh, khả năng tiết kiệm của dân chúng sẽ giảm sút nhanh
chóng, đồng thời tăng trưởng lúc đó cũng giảm đi rất nhiều, thì núi nợ xấu sẽ
đè bẹp hệ thống ngân hàng Trung Quốc.
Không phải lãnh đạo Trung Quốc không biết nguy cơ này, nhưng có rất ít cơ
hội để Trung Quốc thay đổi mô hình tăng trưởng vì nếu thay đổi sẽ phải chấp
nhận "nhịn" đầu tư trong một thời gian, mà như thế thì lấy đâu tiền
cho hệ thống sống. Chiến dịch chống tham nhũng, ngoài động cơ đấu tranh quyền
lực giữa các phe nhóm, còn xuất phát từ nhu cầu gia tăng kỷ luật đầu tư. Tuy
nhiên có vẻ như tính chính trị đang lấn át tính kinh tế trong đó, cho nên hiệu
quả kinh tế của chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" chắc sẽ không cao.
- Những bất ổn hiện tại ảnh hưởng thế
nào đến chính sách của Trung Quốc ở các khu vực tranh chấp trên biển như Biển
Đông và Hoa Đông?
- Có một tư tưởng khá phổ biến cho rằng khi Trung Quốc bất ổn bên trong thì
sẽ gây hấn bên ngoài để gây thanh thế bên trong hoặc để lái sự quan tâm ra bên
ngoài. Tuy nhiên nhìn vào lịch sử hơn 60 năm qua của Trung Quốc thì không thấy
quy luật này nổi lên rõ rệt.
Xét thực lực của Trung Quốc thì thấy dù bất ổn hay không, Trung Quốc cũng
là một cường quốc hạng nặng trong khu vực. Và dù bất ổn hay không thì
"giấc mộng Trung Hoa" cũng không thay đổi. Mà một thành tố quan trọng
của giấc mộng đó là các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông và vị
thế bá chủ trong khu vực.
Do đó tôi nghĩ bất ổn hiện tại ở Trung Quốc sẽ không làm thay đổi chiến
lược lớn của nước này ở các vùng biển Đông Á và Đông Nam Á. Trung Quốc sẽ không
gây chiến tranh lớn vì điều đó sẽ gây thiệt hại nặng nề lên chính nền kinh tế
Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách bành trướng theo kiểu gặm
nhấm, tiếp tục "đánh dưới ngưỡng đau", chừng nào các nước khác vẫn
còn sợ làm Trung Quốc tức giận, vẫn còn ngại va chạm với Trung Quốc, hoặc vẫn
còn coi tranh chấp trên Biển Đông và Hoa Đông là "chuyện nhỏ" trong
"mối quan hệ lớn" với Trung Quốc.
- Ông có thể dự báo xu hướng tình hình
của Trung Quốc và Trung Quốc cần làm gì để giải quyết khó khăn hiện nay?
- Nền kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm tốc độ tăng trưởng, trong
khoảng 5 năm tới sẽ kết thúc thời kỳ tăng trưởng cao, và trong khoảng 10 năm
tới sẽ bước vào một giai đoạn khủng hoảng lớn. Giảm tốc là điều không thể đảo
ngược được vì những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao của Trung Quốc đang ngày
càng cạn kiệt. Khủng hoảng cũng là không thể tránh khỏi vì khối nợ xấu đã quá
to, trong khi đó các rào cản của cơ chế không dễ gì tháo gỡ.
Điều Trung Quốc có thể làm là giảm nhẹ quy mô và tác động của khủng hoảng.
Muốn vậy phải tạo cơ chế kiểm soát đầu tư, nhất là đầu tư công, một cách có
hiệu quả, và phải giải phóng sức sáng tạo và sức sản xuất hơn nữa.
Tuy nhiên, Trung Quốc vấp phải vấn nạn là nếu cải cách mạnh thì sẽ gây xáo
động và bất ổn. Còn nếu cải cách yếu thì sẽ không có hiệu quả. Để giải quyết
vấn đề này, Trung Quốc có thể áp dụng chính mô thức "cắt lát xúc
xích" mà họ đã sử dụng khá thành công trong quá trình bành trướng ở Biển
Đông. Tức là cải cách không ồn ào nhưng kiên trì, mức độ vừa đủ mạnh để có hiệu
quả nhưng cũng không quá mạnh để gây bất ổn lớn, đồng thời chấp nhận một số xáo
trộn nhỏ nhất định.
Việt Anh
Nguồn: Theo VNEXPRESS
Nhà báo Đỗ Hùng bị rút thẻ nhà báo, mất việc, mất chức Phó Tổng thư ký báo Thanh Niên Online chỉ vì viết bài đụng chạm lãnh tụ cho thấy báo chí thời Đệ Nhị Cộng Hòa quá tự do.
Khi ấy các nhà lãnh đạo được đưa lên mặt báo thường xuyên. Tờ Tin
Sáng có mục “Tin Vịt” do “Tư trời biển” viết nêu đích danh Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu là tham quyền cố vị, hiếu chiến, thất học, tham nhũng, bất tài hay
gọi ông là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo"…
Hằng trăm tờ báo tư nhân hoàn toàn không bị mua chuộc hoặc bị áp lực theo
đường lối của chính phủ. Có báo thân chính phủ, chống cộng, có báo đối
lập thậm chí có báo công khai chống đối chính phủ như tờ Tin Sáng nói
trên.
Trên 50 tờ nhật báo với số in từ vài chục lên đến trăm ngàn số
hằng ngày. Các nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ được tự do sáng tác và
phổ biến tác phẩm không bị gò ép trong bất cứ khuôn khổ nào.
Đương nhiên trong hoàn cảnh chiến tranh việc lộ liễu tuyên truyền
cho miền Bắc đã bị kiểm soát. Nhưng trên sách báo vẫn thấy rải rác
những bài viết ca ngợi quốc tế cộng sản. Việc ngấm ngầm tuyên
truyền cho cộng sản Việt Nam cũng không thể tránh khỏi.
Các bài dịch từ báo ngoại quốc với cái nhìn của người ngoại
cuộc thậm chí thân cộng cũng thường xuyên xuất hiện trên mặt báo.
Hằng ngàn nhà in, nhà phát hành đều do tư nhân quản lý. Các tiệm
sách và sạp báo tư nhân trải rộng khắp miền Nam. Thị trường sách
báo hoạt động hoàn toàn tự do.
Ðiều 12 Hiến pháp 1967 ghi rõ: "Quốc gia tôn trọng quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này
không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ
tục".
Bảo vệ bởi luật
Các sinh hoạt báo chí được bảo vệ bởi Luật báo chí 019/69, do Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu ban hành vào ngày 30/12/1969.
Đạo luật gồm 8 chương và 69 điều. Chương 1 đã khẳng định quyền tự do
báo chí là quyền tự do căn bản trong chính thể Việt Nam Cộng Hòa, miễn bài
báo không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc gia và thuần phong mỹ
tục.
Nếu không có quyết định của cơ quan tư pháp không ai có quyền đóng cửa tờ
báo.
Sách báo, tài liệu nước ngoài bản chính và bản dịch nếu không
vi phạm đến an ninh quốc gia và thuần phong mỹ tục cũng được tự do phổ
biến tại miền Nam.
Sau 30-4-1975, để tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản giới trí thức
miền Bắc đã tìm mua những sách xuất bản trước 1975 hay những sách
ngoại quốc viết về chủ nghĩa cộng sản.
Chương 2 của Bộ Luật nhấn mạnh mọi công dân đều được xuất bản báo mà
không cần xin phép. Người muốn ra báo chỉ cần làm thủ tục khai báo tại Bộ
Thông tin. Bộ có nghĩa vụ phải lập tức cấp chứng nhận tạm thời khi nhận đủ giấy
tờ khai báo.
Ngoại kiều cũng có quyền xuất bản báo, chỉ cần Tổng trưởng Bộ Thông tin
hội ý với Tổng trưởng Bộ Nội vụ cấp giấy phép.
Chương 3 nếu không có quyết định của cơ quan tư pháp, không ai có quyền
tạm đình bản hay đình bản vĩnh viễn bất cứ tờ báo nào.
Trong hoàn cảnh chiến tranh để trách những thông tin vi phạm đến an
ninh quốc gia chính phủ đã phải thi hành chính sách kiểm duyệt hạn
chế. Tại Sài Gòn, Tổng trưởng Nội vụ có quyền ra lệnh tịch thu một tờ báo
trước hay trong khi lưu hành. Tại các tỉnh, Tỉnh trưởng cũng có quyền này.
Báo chí không thể bị khởi tố khi tường thuật hay đăng tải các phiên họp,
các thuyết trình, các ý kiến thể hiện quan điểm chính trị. Báo chí có quyền
trích dịch mọi nguồn thông tin ngoại quốc.
Báo chí có quyền chỉ trích Chính phủ miễn là không nhằm mục đích tuyên
truyền cho cộng sản.
Tự do hoạt động
Hội đồng Báo chí hay Hội Nhà báo là một tổ chức dân sự đại diện cho
báo chí. Hội Đồng hoàn toàn vì quyền lợi của nhân viên tòa soạn. Mỗi
báo có ít nhất 2 đại diện một là Chủ nhiệm và một ký giả đại diện của tờ
báo.
Theo Đạo Luật 019/69 nhà báo là người nhận thù lao và cộng tác thường
xuyên với tờ báo. Nhà báo phải có thẻ hành nghề do tờ báo cấp và đăng ký ở Bộ
Thông tin.
Phóng viên ngoại quốc cũng được tự do hoạt động, nhiều người
được móc nối đưa vào vùng cộng sản chiếm để làm phóng sự tuyên
truyền cho cộng sản.
Trong hoàn cảnh chiến tranh cộng sản đã lợi dụng tự do báo chí
để hoạt động. Nhiều ký giả, phóng viên, nhân viên tòa báo là cán bộ
cộng sản nằm vùng hay làm việc cho cộng sản.
Nhật báo Tin Sáng của dân biểu đối lập Ngô Công Đức gồm nhiều người thuộc
thành phần thứ ba như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quí
Chung. Sau 30-4-1975, Tin Sáng được tiếp tục phát hành thêm 6 năm, được
đóng cửa với lý do tờ báo đã "hoàn thành nhiệm vụ".
Tình trạng báo đối lập tại miền Nam đã được tờ Lao Động, số ra
ngày 13/07/2015, tóm gọn như sau:
“Báo đối lập bị tịch thu dài dài, chủ bút ra tòa như cơm bữa, nhưng chỉ bị
“phạt miệng”, chứ không đóng một xu nào. Tịch thu thì cứ tịch thu, báo vẫn đến
tay độc giả đều đều. Lí do hết sức đơn giản, báo chưa đưa đi kiểm duyệt đã phát
hành rồi nên khi cảnh sát ập đến tòa soạn để lập biên bản tịch thu thì có một
số tờ đã "cao chạy xa bay"…”
Tong hoàn cảnh chiến tranh và trước tình trạng nói trên ngày
4-8-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Đạo Luật số 007/72.
Luật mới quy định mỗi nhật báo phải ký quỹ tại Tổng nha ngân khố 20 triệu
đồng (bằng 500 lượng vàng) và 10 triệu đồng cho báo định kỳ. Ngay khi ban
hành đã có 16 tờ nhật báo và 15 tờ báo định kỳ không có tiền ký quỹ
phải đóng cửa.
Luật mới cũng quy định tờ nào hai lần vi phạm an ninh quốc gia và trật tự
công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.
Việt Nam Cộng Hòa là một nước theo thể chế tam quyền phân lập rõ
ràng: Tư pháp độc lập với Hành pháp. Cơ quan hành Pháp truy tố một
tờ báo nhưng quyết định tờ báo có vi phạm an ninh quốc gia và trật tự
công cộng, vi phạm ở mức độ nào là quyết định hoàn toàn của Tòa
Án.
Luật mới ra đời báo chí vẫn hoạt động khá tự do. Như tháng 8 năm 1974
báo chí vẫn tiếp tục cổ vũ cho Phong
trào nhân dân chống tham nhũng của Linh mục
Trần Hữu Thanh, hay cổ động cho Ngày ký giả đi ăn mày,
10-10-1974.
Điểm son nền Cộng hòa
40 năm nhìn lại sinh hoạt báo chí cũng như mọi sinh hoạt khác tại
miền Nam vừa tự do, vừa văn minh hơn hẳn các quốc gia trong vùng và
không thua gì các quốc gia tân tiến. Đây là điểm son của nền Đệ Nhị
Cộng Hòa làm nhiều người cảm thấy luyến tiếc một thời đã qua.
Một số người cho rằng chính báo chí dẫn đến sự sụp đổ của
miền Nam tự do. Thực ra định mệnh của nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã được
thu xếp tại Tòa Bạch Ốc, từ Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Hiệp Định Ba
Lê.
Một số bạn ở Việt Nam cho biết báo chí thời nay ít người đọc.
Ngược lại ở hải ngoại báo chí vẫn thịnh hành. Điều này chứng tỏ
nhu cầu đọc báo ở Việt Nam đã không được đáp ứng.
Trở lại với nhà báo Đỗ Hùng, bài viết của ông đã được lấy xuống không
một lời giải thích, không còn thấy Facebook của ông và không ai biết việc gì
đang xảy ra cho ông. Điều này chứng minh ở Việt Nam hoàn toàn không có quyền
tự do ngôn luận.
Ở Việt Nam chỉ có 1 cơ quan tuyên giáo nên rất có thể không báo nào dám
nhận ông làm việc. Từ góc cạnh nhân quyền ông mất cả quyền mưu cầu cuộc sống
cá nhân và gia đình.
Việt Nam đang cố gắng để được tham gia Hiệp Ước Thương Mãi Xuyên
Thái Bình Dương (TPP) có điều khoản về tự do báo chí, việc nhà cầm
quyền cộng sản sa thải nhà báo Đỗ Hùng cho thấy họ chưa sẵn sàng
tuân thủ các điều khoản sẽ ký.
Ngược lại bài học từ tự do báo chí trong nền Đệ Nhị cộng Hòa
cho thấy nước Việt Nam và người Việt Nam thích nghi hơn với một thể
chế tự do như đã có tại miền Nam trước 30-4-1975.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
11-9-2015
Quảng Cáo
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire