Thiện Tùng
"Tính người ngày một suy giảm nếu giáo dục và đào tạo trong
môi trường Xã hội Chủ nghĩa (XHCN)” - Đó là nhận xét của
các nhà Xã hội học, nhà quan sát. Nó đúng với hiện thực, sai với giọng điệu
tuyên truyền tâng bốc về “Con người mới XHCN”.
Truyện ký (ký
văn học) “Nghiệt Ngã” nầy của Thiện Tùng giới thiệu bản chất một trong nhiều người được đào luyện trong môi trường XHCN chẳng những ở
Bắc VN mà cả ở Trung Quốc và Liên Xô"
*
Đây là mùa hè thứ 12 từ khi Lệ Sa khoác áo học trò.
Đây là mùa hè thứ 12 từ khi Lệ Sa khoác áo học trò.
Hè năm nay – 1975, Sa ngỡ ngàng trước bao điều mới lạ : Những người ăn mặc giản dị nhứt
lại có quyền hành nhứt. Phần lớn các chú, các anh với bộ bà ba đen, khăn rằn,
nón tai bèo, đôi dép râu ... dạn dày sương gió. Ngoài màu đỏ của hoa phượng (điệp)
như thường niên, hè năm nay thêm màu đỏ của băng, cờ. Nhìn toàn cảnh dường như màu đỏ ngự trị.
Với chiếc xe đạp, tiện thể Sa về quê vừa ôn thi tốt nghiệp Trung học vừa
thăm mẹ và ông bà ngoại. Không như những lần trước đó, lần nầy, suốt cả đoạn đường dài gần 20 cây số, Sa dán
mắt dọc theo lề lộ bên phải, hai chân cứ ấn đầu trên đôi bàn đạp, đầu nghĩ miên
man bao chuyện chẳng đâu vào đâu, ấy thế mà cũng chỉ hơn tiếng đồng hồ, vòng bánh xe của Sa ngốn cả đoạn đường dài đầy cát bụi ấy.
Ngã rẽ vào nhà, dưới gốc cây me, chiếc xe ô-tô màu trắng sữa đậu chắn gần hết lối vào,
Sa cố lách khéo để khỏi va chạm. Xe của ai, họ vào đây để làm gì ? Sa tự hỏi nhiều nhưng không tự đáp được câu nào.
Biết nhà có khách, Sa dựng xe dưới gốc mận bên hông nhà, lòn cửa sau rón rén
bước vào trong. Nhà
khiêm tốn, nhìn thấu trước sau, dầu chưa muốn Sa cũng phải
chường mặt, khom người chào khách cho phải lễ. Ông ngoại Sa lẹ miệng: “Đây
là Chú Võ – bạn chiến đấu của Ba cháu, người
thân xưa và nay của gia đình ta”. Nhìn
sang Võ, ông nói cảnh khó, khổ của gia đình với giọng trầm buồn: Ba nó hy
sinh, mầy đi tập kết, nó còn trong bụng mẹ. Con Sương – mẹ nó, buồn khổ khóc hết
nước mắt. Có lẽ vì vậy, sinh nó ra như con mèo con, èo uột rất khó
nuôi, nhỏng nhẻo hết chỗ nói. Dựa vào thảm cảnh mẹ con nó lúc bấy giờ, cả nhà đồng
ý gắn cho nó cái tên Lệ Sa. Những năm gần
đây nó phát tướng, trổ mã, chớ hồi nhỏ khai sinh thấp hơn hai tuổi đề được đi học mà nhà
trường đâu có biết. Vì tương lai nó, cả nhà “Tần Sở” lo
cho nó ăn học, hè này xong Trung học. Đậu hay rớt cũng nghỉ, hết xiết rồi”!.
Nảy giờ Sa đứng chết bộ, trân mình nghe ông ngoại khui chuyện gia đình, nhất
là về đời tư của Sa với người đàn ông lạ. May mà ông này thuộc hàng chú bác chớ
với một nam thanh thì Sa còn quê hơn nhiều. Đợi khi ông Ngoại dứt câu, Sa chào khách rồi ra sau phụ lo cơm nước
với mẹ, để ông bà ngoại tiếp chuyện với chú Võ.
Ngồi nhổ lông vịt đàng sau, Sa nghe ông Võ nói như phán : “Phải cho nó học xong
Đại học chớ…?!”. Tiếc rằng ông ấy dừng
lại ở chủ trương chớ không hề đá động đến biện pháp. Từ việc học hành của Sa,
ông Võ bắt hoàn qua việc học hành của mình :
nào học ở Miền Bắc, nào du học bên Trung Quốc, bên Liên Xô, đỗ bằng nầy, đậu bằng
kia nghe phát ngộp. Nhìn mẹ, Sa cười nhận xét ngắn gọn về ông Võ : “Tràng
giang đại hải”, “vạn sự thông”, “phát thả”(1). Bà Sương không hài lòng về nhận xét vội vàng của con, nói phân hai : “Lần
nầy nữa là lần thứ ba mà xem mòi ổng nói chỉ nhòn (lưng) biết bao chuyện cùng trời cuối
đất, có những chỗ tao nghe như vịt nghe sấm. Tất nhiên thôi, đi nhiều biết nhiều,
nói nhiều chớ đâu ru rú như mình, kiểu
gà què ăn quẩn cối xay biết gì mà nói, mà cãi”.
*
Nhờ chăm chỉ học, ôn bài kỹ, Sa thi thừa điểm đậu kỳ thi tốt nghiệp trung học.
Thấy trong bảng ghi danh thi vào Đại học không có tên Lệ Sa, một số thầy cô đốc
thúc, Sa lắc đầu rươm rướm nước mắt, lặng lẽ quay đi. Đôi lúc le lói trong đầu
Sa hy vọng vào sự trợ giúp kịp thời của chú Võ, nhưng ngày qua ngày, hy vọng nhỏ
nhoi ấy theo gió thoảng mây bay.
Tháng 5, đúng là tháng “nắng lửa mưa dầu”, Sa cùng mẹ cặm cụi dọn đất chuẩn bị sạ lúa Hè
– Thu. Tiếng gọi từ trong nhà vọng ra: “Vào đây cái đã”.Chẳng
biết gọi ai, thôi thì hai mẹ con cùng vào.
Chiếc xe ô-tô chạy êm như ru, đến tự bao giờ không rõ, nó vẫn
như bao lần, ẩn nắng
dưới tàng cây me. Bà Sương khẳng định với Sa : “Xe chú Võ đấy ! Chắc ông ngoại gọi vào vì có ông ấy đến chơi”.
Mẹ trước con sau, trờ
vào cửa đã thấy ông Võ ăn mặc bảnh bao, ngồi uống
nước trà ở ghế giữa. Sau bước thủ lễ qua lại, bà Sương vội vào trong, Sa chưa kịp đi, ông Võ giữ lại bằng câu nói đùa : “ Bộ Lệ Sa học canh
nông sao mà thi tốt nghiệp Trung học rồi về lao ngay vào ruộng vậy” ?.
Rõ ràng, một câu hỏi không cần lời giải đáp, nó như mũi kim chọt vào
vết thương vừa kéo da non
của Sa. Bình tĩnh, Sa thản nhiên đáp :
– Không làm ruộng cháu biết phải làm gì ? … chẳng lẽ…, hay đợi tối ngữa mặt
lên trời hứng sương mà sống ?
Có lẽ cảm nhận được “hương vị” câu trả lời của sa, Võ đặt vấn đề :
– Làm thư ký riêng cho chú chịu không ?
– Cháu mới “ra lò” biết “ất giáp” gì về chuyện ấy, thêm phiền chú.
– Chú không sợ phiền mà cháu sợ cái nỗi gì ? Ai biết từ trong bụng mẹ biết
ra ? Vừa học vừa làm … Ờ, mà nè, Võ đổi giọng quả quyết :
– Ruộng đất
rồi đây phải nhập chung vào làm ăn hợp tác – Xây dựng chủ nghĩa xã hội,
không thể để riêng tư thế nầy nữa đâu.
– Biết sao giờ, đến đâu hay đến đó – Sa nói buông xuôi.
– Đợi nước đến trôn làm sao nhảy kịp ?
– Nhà đến bốn miệng ăn, nếu cháu làm thư ký riêng cho chú, lương cháu sao nuôi nổi !
– Cháu làm việc thì mẹ cháu và ông
bà ngoại hưởng chế độ ăn theo
chớ lo gì? Thôi thì chú móm ý như vậy, tùy cháu và gia đình định liệu.
Với giọng nói ran rản, những gì ông Võ nói với Sa cả gia đình đều nghe. Việc
Sa nên hay không làm thư ký riêng cho ông Võ trở thành đề tài cho
gia đình trao đổi suốt mấy hôm liền. Cuối cùng Sa đến Ủy ban Kế hoạch báo thuận
ý làm thư ký riêng cho ông Võ.
Y như Thánh nói, mới
hôm nào ông Võ nói Nông nghiệp sẽ làm ăn hợp tác thì
nay đã có chủ trương hợp tác hóa
Nông nghiệp trên toàn cõi . Chạy trời sao khỏi nắng, gia đình
Sa cũng phải riu ríu đưa đất vào làm ăn hợp tác. Cái khó của gia đình Sa là ông
bà ngoại không còn sức lao động, chỉ có mẹ Sa vào tuổi 42 thủ vai trụ cột. “Một
con bươi ba con mổ”, phải
bươi cật lực. Ngày 8 tiếng đồng hồ, bà Sương ra đồng làm lấy công điểm, tối về
chăm sóc mẹ cha ương yếu vất vả trăm bề.
*
Từ khi nhận Sa làm thư ký riêng, ông Võ không tới lui gia đình
Sa như trước. Dĩ nhiên
ông cũng trương ra lý này, cớ nọ để gia đình không phiền
trách ông. Giỏi thật, ông ngon ngọt sao đó, Sa chịu kết nghĩa làm cháu nuôi với
ông.
Có lẽ nhờ biết “đối nhân xử thế”, từ miền Bắc mới về còn chưn ướt chưn ráo, lãnh đạo Tỉnh Tiền Giang ấn ông ngồi vào ghế quan hàng
nhị phẩm. Từ chức tước, uy quyền đến lương bổng đều do trên ban cho, thế nên bao giờ ông Võ cũng có động thái “thượng đội, hạ đạp, hai cùi chỏ
thúc”. Khi chưa làm được chế độ
ăn theo cho gia đình Sa, ba cái thứ lẻ tẻ như : gạo, dầu hôi, nước mắm, Sa cần
đến đâu ông ký giấy giới thiệu đến đó. Chữ ký của ông
“rồng bay phượng múa”, có khi không cần đóng dấu vẫn có hiệu lực thi hành. Nhờ
ông, gia đình Sa vượt qua khốn khó. Từ đó họ xem ông như “thiên thần hộ mệnh”.
Bà Sương đau nặng phải
đưa vào bệnh viện cứu cấp, khổ nổi không tiền, không thân, Sa vội đến phòng làm việc ông Võ hỏi mượn tiền và nhờ ông giới thiệu để
được điều trị miễn phí. Ông Võ nghiêng đầu nhìn
Sa cười rồi nói bóng
gió :
– “Bánh sáp” cứ đi mà “bánh qui” chưa thấy lại ?!…
– Chú thông cảm, ngoài cái thân, hiện cháu không có gì đáng để cầm cố .!
– Thì “có chi dùng nấy”.
Sa sửng sốt, đứng như trời trồng, miệng lẩm bẩm lập lại câu “Có chi dùng
nấy” từ miệng ông Võ vừa thốt ra. Ghê gớm thật, chỉ có 4 từ mà bộc lộ cả
tâm địa của một con người mà từ lâu cả gia đình cô xem như thần tượng !
Vì thương Mẹ, Sa cố kềm
bực tức, đứng lặng người, nước mắt chảy dài trên đôi má. Hoàn cảnh hiện tại của
Sa chỉ có một con đường “túng thế phải tùng quyền” nên bạo gan hứa liều
:
– Được rồi … ông (lần đầu Sa gọi Võ bằng ông thay từ chú) giúp tôi cứu sống
mẹ tôi, sau đó gì sẽ tính sau.
Sa cố giữ tay mình đừng run khi nhận tiền và giấy giới thiệu từ tay ông Võ.
Sa thừa biết ông Võ đưa tiền để thu tình. Nắm tiền và giấy giới thiệu, Sa mường tượng như nắm mạng sống của
mẹ và như đang bóp chết trái tim mình,
lòng cô cảm thấy nhói đau. Đến nước nầy Sa mới thấm thía câu cảnh báo của Sơn “Người
ta nuôi con gì lớn lên cũng thịt”. Chính câu nói bạo mồm, bạo miệng ấy của
Sơn làm phật lòng ông Võ, dầu Sơn tài giỏi đến đâu, ông Võ cũng sẵn sàng loại Sơn ra khỏi biên chế, đưa anh vào
quân đội, sang chiến trường Tây Nam đã hơn một năm, sống chết chưa rõ.
Bao đêm nằm cạnh mẹ, Sa nhàm chán khi phải nhìn những giọt nước định mệnh từ chai rơi qua ống
dẫn; buộc phải nghe tiếng cọt kẹt phát ra từ chiếc quạt trần cũ kỹ như nhái
theo nhịp đập của tim mình; phải chứng kiến lũ thiêu thân lao
vào những bóng đèn rồi ngã lăn ra chết.
Bà Sương xuất viện, Sa
về lại cơ quan với vẻ mặt mệt mõi chán chường. Ông Võ cho Sa về phòng trọ nghỉ thêm vài hôm cho lợi sức.
Đang thiu thiu ngủ, nghe có tiếng bước chân quen thuộc, Sa nhận ra ngay đó
là bước chân ông Võ. Ông Võ to người, lớn xương, đôi lông mày rô, râu quai nón, hai vai
xuôi như bị xụi, đôi bàn chân to chè bè, hai ngón chân cái quẹo vào bên trong,
bước đi nặng nề phát ra tiếng kêu xèm xẹp.
Sống độc thân, thường đêm ông Võ ưa la cà sang phòng trọ
của Sa để thăm hỏi, chuyện trò, xem như lãnh đạo đến với
nhân viên, chú đến với cháu nuôi. Sa có linh cảm: chắc không như những lần trước,
lần nầy ông đến để “đòi nợ”, Sa lúng túng, tim như muốn vọt ra ngoài. Đúng như Sa
dự đoán, vừa đặt chân vào phòng, ông gọi Sa bằng
em, nói năng không giữ kẽ, miệng sàm sở, tay rờ mó vào người Sa. Qua cử chỉ Sa thừa biết
ông muốn gì. Sa phản ứng theo bản năng, nhưng càng
phản ứng ông càng rấn tới. Biết phải làm gì khi mình đã nợ ông ấy ! Thôi thì
đàng dùng cái mình có cũng là cái ổng cần, trả phức cho xong món nợ. Thế là Sa
đem cái quí nhất của đời con gái dâng cho ông Võ để cấn nợ.
Ngỡ một lần hiến thân cho qua, không ngờ sau đêm khủng khiếp ấy, Sa mang
thai. Hoang mang tột độ, Sa đem chuyện mình mang thai báo với ông Võ. Sa muốn
phá, còn ông Võ bảo giữ và nhanh chóng làm lễ cưới để hợp pháp hóa cái thai. Thấy
sa còn do dự, ông dọa: “Việc nầy nếu đổ bể
ra, bất quá tôi bị kiểm điểm, xử lý nội bộ, còn cô tránh sao khỏi bị đuổi khỏi
cơ quan – Hễ bị đuổi thì đừng hòng có cơ quan nào nhận”.
Bao đêm trằn trọc, Sa so hơn tính thiệt : Nếu nghe theo ông Võ thì
chỉ mất cái đã mất, ngược lại sớm muộn gì mình cũng bị đuổi việc. Hơn nữa, ruộng
đất đã vào hợp tác, để bị đuổi việc mình về đâu, sống bằng cách nào, số phận rồi
sẽ ra sao !… Sa nghĩ : mình sai từ đầu, đã rơi vào bẫy của tên thợ săn già,
có giẫy giụa chỉ thêm thiệt thân. Thôi cứ chấp nhận ông chồng già thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Thế là Sa thuận theo ý ông
Võ.
Đám cưới, đúng hơn là lễ tuyên hôn được tiến hành vội vã ở cơ quan. Sự vội vã ấy cũng dễ hiểu, vì họ đã “đặt cày trước trâu”. Phía ông Võ chỉ có em trai, một bân học Bác sĩ, bất bình với ông
Võ không tới dự. Về phía Sa, đích thân cô về tận nhà thỉnh ông bà ngoại và mẹ,
nhưng chẳng ai tới dự.
Lễ tuyên hôn tiến hành trước sự hiện diện của anh chị em trong cơ quan và một ít
bè bạn của riêng ông Võ. Vì chướng mắt, có tiếng dèm xiểm: “trâu
già mà gặm cỏ non”.
Dường như thiếu sự
công bằng : lắm người có “bồ nhí” nhưng ít nghe ai dị nghị, còn có “vợ nhí” – lúc bấy giờ xung quanh đây chỉ có ông
Võ, khiến người ta đặc biệt
quan tâm, lắm lời ra tiếng vào, nó trở thành chuyện vui khi gặp nhau giữa những
người thích đùa. Việc gì cũng có cái lý, cái lẽ riêng của nó :
Bồ nhí thì lén lút, âm thầm giữa hai người, họ giữ kín như bưng, mấy ai tường tận. Đã không tường tận thì dầu có ăn gan trời hay uống mật gấu cũng
không dám hở miệng. Còn vợ nhí như ông Võ chẳng hạn, chường mặt ra giữa thanh thiên bạch
nhựt “đánh trống khua chiêng” trước bàn dân thiên hạ, chỉ ngại không đủ sức chớ
sợ gì không đàm tiếu. Có câu “muốn ăn lăn
vào bếp, muốn chết lết vào hòm”. Ông Võ thì đành rồi, chỉ thương cho Lệ Sa, cô nào đâu muốn
thế nhưng trước nghịch cảnh, cũng phải lăn, phải lết vào, dầu tức tưởi đến mấy
cũng không một tiếng kêu than.
Sa thành hôn với ông Võ, mẹ và ông bà ngoại cô đau buồn, chua sót. Mấy tháng
sau khi bà ngoại qua đời, ông ngoại gọi Sa về rồi bảo cả hai mẹ con đến ngồi cạnh.
Từng tiếng một, với giọng khàn khàn, run run : “Ông gọi cháu về để nói
cho cháu nghe một sự thật đau lòng, từ lâu gia đình không tiện nói với cháu. Nếu
ông không nói cho cháu biết, chết rồi, chắc mẹ cháu nhẹm luôn”.
Ông bảo Sa đến gần hơn, Sa áp sát, nắm tay ông ngoại, niểng đầu cố nghe cho
hết. Giọng ông khàn khàn nhưng nhờ nói chậm cũng dễ nghe :
"Năm – 1953, thời đánh Tây ấy mà, thằng Nam (Ba cháu) và thằng Võ (đang
là chồng cháu) là bạn chiến đấu với nhau, hai đứa cùng ở chung một đơn vị bộ đội.
Thằng Võ trung đội trưởng, thằng Nam trung đội phó. Hai đứa thường tới
lui nhà nầy, cả hai đều yêu mẹ cháu. Rốt cuộc, mẹ cháu chỉ yêu thằng Nam. Thằng
Võ đại diện đàng trai, ông bà ngoại đại diện đàng gái tổ chức lễ tuyên hôn cho
hai đứa tại nhà nầy. Mấy tháng sau đó, trận đánh bọn Tây đầu đỏ ở đầu lộ An Lục
Long, thằng Nam (Ba cháu) trọng thương. Trước khi chết (theo thằng Võ kể lại),
thằng Nam thều thào với nó: Tôi không thể sống, vợ tôi đang mang thai.
Khi tôi chết rồi, anh an ủi và làm những gì có thể giúp vợ con tôi . Sau khi
chôn cất Ba cháu, đôi lần gì đó thằng Võ đến đây thăm rồi đi tập kết biền biệt
luôn. Sau 30/4/1975, từ miền Bắc về, thằng Võ mò đến đây thăm. Qua đôi lần tiếp
xúc, xem mòi nó và mẹ cháu thương nhau. Một hôm ông bà vui miệng cáp đôi Võ với mẹ cháu. Hai đứa đã ưng thuận, chỉ còn chọn ngày làm lễ cưới. Thế rồi, từ khi nó nhận cháu
làm thư ký riêng chung gì đó, không thấy bén mãn
đến đây nữa, việc làm lễ cưới giữa nó và mẹ cháu cũng bỏ xuội luôn. Khi cháu báo tin kết hôn với nó,
cả nhà như bị sét đánh. Đó là nỗi buồi của gia đình và lý do cả nhà không ai chịu đi dự lễ thành hôn của
cháu với nó. “Khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt”, buồn lắm cháu ơi !. Chắc cháu đã thấy, từ khi cháu và nó kết hôn, không riêng thằng
Võ mà ngay cả mẹ cháu và ông bà ngoại đều không muốn chạm mặt nhau, bất đắc dĩ
phải chạm mặt, bên này cũng như bên kia hỏi nhau bằng những câu ngắn gọn và trỗng
(không có chủ từ).“Tình mẹ duyên con”,
mẹ cháu khổ sở không nói nên lời. Đó là tất cả những gì ông muốn nói với cháu.
Cuối cùng ngoại có lời khuyên : “Gì thì gì, cháu phải quý trọng và xót thương mẹ Sương của cháu – Một người
mẹ bao giờ cũng tất cả vì con”.
Nghe qua cớ sự, như ai cướp đi phần hồn, Sa dúi đầu vào lòng Mẹ
khóc ấm ức, chẳng nói chẳng rằng. Lau nước mắt, sửa tóc lại cho con, bà
Sương nói trong nghẹ ngào : “Mẹ biết, do gia đình ta khó khăn, do cơn bạo bịnh của mẹ, con phải ngữa
tay nhờ nhỏi người ta, buộc con phải làm như vậy chớ con đâu muốn như vậy!.
Thôi cứ xem đó là cái giá phải trả cho việc “đau chân há miệng”. Con nên nghĩ đến
tương lai hạnh phúc cho bản thân mình. Việc
đã lỡ đừng xé thêm to, bung thùa ra xấu hổ nhất vẫn là gia đình ta. Con không
phải lo cho mẹ. Mẹ sẵn sàng “mở cửa kho” cho vào thêm một nỗi buồn nữa có sau
đâu, Mẹ còn chịu đựng được mà”.
Tội nghiệp cho ông già, sức mõn hơi tàn, cũng cối thều thào đôi câu nữa với con cháu : “Trong
vụ nầy, suy cho cùng, cả gia đình ta
ít nhiều ai cũng có lỗi lầm. Đúng là cả tin nên mắc, cả nghe nên lầm. Hãy thận
trọng hơn là bài học đừng
bao giờ quên đối với chúng ta”.
Chuyện ông ngoại kể tạo nên cú xốc vật vã, nó ruông vào tim óc của Sa. Từ
lâu Sa ngỡ rằng mình “liều thân” để cứu vớt gia đình, nào ngờ sự liều thân ấy
đem đến cho gia đình bao phiền muộn, gây cho mẹ vết thương lòng tác tệ hơn cái chết. Nếu biết cớ sự như vầy, thà để cả gia đình chết chùm chớ Sa không thể “chìu lòn” ông Võ. Càng
nghĩ, Sa càng thương mẹ bao nhiêu
càng oán hận ông Võ bấy nhiêu. Dầu cho Phật trên niết bàn
cũng không từ bi hỉ xả cho ông Võ: chỉ một phát “bắn xỏ lụi” của ông làm cả gia
đình Sa bị thương, bà Sương là
người trầm trọng nhất. Thử hỏi chỉ vì dục vọng
thấp hèn, ông đã giáng một đòn trí mạng vào tâm não người phụ nữ mà 23 năm trước đây, cũng
như mới hôm nào ông còn mơ mộng được cưới làm vợ. Ông nỡ
làm ngược lại lời trăn trối của người bạn chiến đấu trước khi lìa đời chết gục trên tay ông. Vô nhân, vô sỉ, vô liêm
đến thế là cùng ?!..
Qua đó, Sa tự thấy mình thời gian qua quá hèn yếu, trân mình chấp nhận số
phận, mặc cho dòng đời đẩy đưa. Đến nước nầy, không thể chịu mãi như thế, mình phải cứng cỏi hơn, phải vượt lên số phận, phải
tiến hành một cuộc “giải phẩu” để xóa mặc cảm, vá lại vết rách gia đình.
Điều không muốn nói lại đến, ông ngoại sa qua đời, bà Sương như người mất hồn, đôi lúc
bà lảo đảo như không còn đứng vững trên đôi chân mình. Chôn cất
ông ngoại xong, Sa ở lại qua đêm cho nhà bớt tẻ lạnh, chia sớt phần nào nỗi đau
buồn, cô đơn của mẹ. Tối đến bà Sương xếp chỗ và giăng mùng cho Sa ngủ riêng. Đêm ấy không biết bà Sương có
chợp mắt được chút nào không, riêng Sa thì thức
trắng. Đúng là “thức khuya mới biết đêm dài” Sa bị rơi vào vòng lẩn quẩn : càng nhớ càng thức, càng thức càng nhớ
– nhớ cả những chuyện đầu đời. Bao trăn trở, bao tiếng thở dài của mẹ, Sa nghe
không sót. Đôi lần sa muốn bậm gan sang ngủ chung với mẹ nhưng không dám. Hơn
bao giờ hết, Sa thèm khát được trở lại cuộc sống như những ngày nào ăn chung
mâm, ngủ chung mùng với mẹ. Dòng suy tư của Sa bị cắt đứt bởi tiếng hát ru từ nhà ai vọng lại
: “Ầu … ơ … ví vầu tình bậu muốn thôi,
bậu gieo tiếng dữ để rồi bậu ra”…
Sa lập lại từng từ của câu hát, thấm ý gật đầu. Từ đó, Sa nảy ra ý định : bằng
mọi cách phải hủy bỏ cho kỳ được cuộc hôn nhân quái đãng giữa cô và ông Võ. Sa
quả quyết : nếu không làm được việc ấy đừng mong xóa được mặc cảm giữa mẹ con
cô, tình mẹ con sẽ ngày thêm phai lợt.
Sa thấy cần đổi 3 từ trong câu hát ấy thành: “Ví vầu tình bậu muốn thôi, bậu
gây chán nãn để rồi bậu ra”. Sở dĩ Sa loại 3 từ “gieo tiếng dữ”,
vì gieo tiếng dữ mang nội dung bịa đặt, vu cáo … Bịa đặt, vu cáo chưa bao giờ
và không bao giờ thuộc bản chất của Sa.
Người đời đã nhủ : “Đi với sãi mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy”. Sa quyết định “mặc áo giấy” đi với ông Võ đoạn đường còn lại.
Lần nầy về lại cơ quan, Sa mang theo bao buồn bực, dầu có cố cũng không thể giấu kín trong
lòng. Nhìn vẻ mặt hầm hầm của Sa, Võ buộc
miệng trêu : – “Thấy mặt hết muốn “nhậu”. Ai làm gì khiến cô chầm hầm như thợ thiến trâu vậy ?
– “Ai trồng khoai đất nầy” – Sa nhìn Võ ám chỉ.
– Tôi à ? … Chưa biết tội ?…
Sa trợn mắt nhìn ông Võ rồi “siết nguyên băng” : “Ông không biết hay
không muốn biết ? Tôi hỏi ông, ai đã từng yêu và định cưới mẹ tội, ai là chồng
bất đắc dĩ của tôi” ?
Bị “lật tẩy” bất ngờ, ông Võ lúng túng chưa biết phải ăn làm sao nói làm
sao. Sa bồi thêm : Một nhà văn nào đó đã nói “Chúng ta ai cũng là tác giả của cuộc đời mình”, nói thế có nghĩa :
Không ai hiểu ta hơn ta. Ta không hiểu ta là lừa dối thậm chí đối với bản thân mình, hoặc giả là kẻ điên. Ông đâu có điên, ông rất
khôn, khôn quỉ nữa kìa.
Mặt ông Võ đỏ bừng, mũi vốn to càng to, bộ lông mày rô dựng đứng, đôi mắt đỏ
ngầu như hườm nuốt chửng ai đó dám cả gan xúc phạm mình. Ông cắn răng dằn thừng
chữ :
– Ai độc mồm độc miệng dám nói tôi yêu mẹ cô ?
– Ông ngoại vợ ông – Lão mà chính ông cho là già mà không lẩm cẩm ấy. Trước khi chết ổng gọi tôi về và
tuôn ra tất cả, có mẹ tôi – bà Sương ấy chứng kiến, không tin thì xuống đối chất với bà ấy.
Đớ lưỡi, như quả bóng bị xì, ông Võ thả lửng :
– Ờ … Mà … Thì …
– Nổi danh là người né hay, ngụy biện giỏi, sao trước việc nầy ông lại cà lăm ?
– Ai nói tôi ngụy biện giỏi ?
Sa thừa biết ông Võ hỏi như thế là cố ý đánh tráo nội dung đang tranh cãi nhằm
né đòn. Đã lâu rồi, ông Võ mắc phải căn bịnh mãn tính : tranh luận với ai, về vấn
đề gì, ông cũng thủ từ thắng đến huề. Bị Sa “sút thủng lưới” như thế vẫn chưa
chịu thua, tìm đường chạy. Đối với Sa cực chẳng đã mới đem chuyện có dính líu đến
mẹ mình mở đầu cho cuộc hành trình làm cho ông Võ chán nản cô. Ông Võ chạy đàng
nào cô đuổi theo đàng nấy. Nhìn thẳng vào ông Võ, Sa hài những cố tật của ông: Kiểm
lại xem, ông nói cũng như viết đầy rẩy ngụy biện, dài dòng, thổi
phồng, chẳng hạn như: Không gọi “thất nghiệp” mà gọi “người đến tuổi lao động chưa có việc
làm”;”Hàng ế” mà gọi “hàng tốn kho chưa lưu thông”; Cửa hàng “tạp hóa” thì gọi cửa hàng “bách hóa tổng hợp”;Thích dùng chữ “rất”,
việc chỉ “hơi tốt” thì nói “rất tốt”.v.v…?.
Chẳng rõ đuối lý hay chán nản, ông Võ mặt giận bỏ đi.
Bữa nọ, đang ăn cơm, Sa nói như ra lịnh :
– Hãy dẹp cái tủ thuốc rượu và đốt bỏ những toa thuốc quái quỉ của ông đi. Tôi xấu hổ vì chúng quá rồi !…
– Để chúng mắc mớ gì cô mà bảo thế ?
– Quá đấy chớ : rượu tắc kè, thằn lằn, rắn mối gì đó cũng đem trương ra như
triễn lãm trước bàn dân thiên hạ;
lôi đâu về những toa thuốc rượu nói gốc của Tàu, của quan Ngự y thời Minh Mạng,
Tự Đức gì đó. Hễ có ai tới nhà, ông luôn mồm quảng
cáo về tính năng, tác dụng của chúng, nào bền bĩ, dẻo dai, “nhứt dạ lục giao
sanh ngũ tử” v.v… Đúng là “cùi không sợ lở”, ông thì chay chớ tôi mắc cở đến
chết đi được.
Ông Võ bực “lên dầu sống” :
– “Trời đánh cũng tránh bữa ăn”, gần đây tôi thấy lúc nào, nơi nào, việc gì cô cũng nói xấu tôi được.
– Không phải tôi nói xấu ông mà ông vốn xấu – Tôi chỉ mới nói một phần nhỏ
những gì ông vốn có.
Ông Võ giận quăng đũa bỏ đi. Yến Nhi bình thản ngồi ăn, xem việc cãi vã giữa
cha mẹ là thú vui, xảy ra như cơm bữa.
Hết ngày nầy sang ngày nọ, hết keo nầy gầy keo khác, Sa vạch trần những khiếm
khuyết của ông Võ, không theo phương pháp xây dựng mà theo lối chỉ trích nhằm làm cho ông Võ chán nản xa rời cô.
Chay lì như ông Võ, gặp phải kiểu phê bình của Sa cũng
cáu tiết, bao lần “nổi thầu lậu” (phùng mang trợn mắt) dợm thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Thường
sa chọc tức ông Võ vào những buổi chiều, cốt để ông Võ giận
suốt đêm. Ngặt nỗi, ông Võ không giận dai, tối nào cũng chui vào ngủ chung với
mẹ con Sa – xem như không có chuyện gì xảy ra.
Thấy “bùa” nầy không hiệu nghiệm, Sa chuyển qua “phép” khác : cô bí mật nhịn
ăn ép xác, cố làm cho mình gầy yếu, xấu đau xấu đớn rồi phao tin mình mắc bịnh
nan y, kỵ “gần gũi” đàn ông. Ngỡ là thật, dầu không muốn ông Võ cũng phải chấp
nhận hai người sống ly thân.
Việc ly thân chỉ là thắng lợi bước đầu, ly dị mới là mục đích cuối cùng của Sa.
“Nai dạt móng chó cũng le lưỡi”, sức khỏe Sa không cho phép kéo dài việc ép xác, còn ông Võ đang cần cuộc sống có đàn bà, không thể kéo
dài sự chờ đợi vô vọng. Có lẽ đó là chỗ họ gặp nhau.
Nghe phong phanh Sa mắc bịnh nan y, sống ly thân với ông Võ, bà Nga, một phụ
nhữ lỡ thời, thích chưng diện, quen sống dựa, có tuổi đời lớn hơn Sa một con giáp, thường la cà
đến chỗ ông Võ. Mỗi lần gặp nhau họ giỡn trửng, liếc
ngược, liếc xuôi. Môt
hôm nhân lúc họ đang đùa cợt, Sa xuất hiện nói nửa đùa nửa thật để thăm dò :
– Hai người xứng đôi đấy, kết
hôn với nhau đi, tôi làm gạch nối (làm mai).
– “Hỏng dám đâu” – bà Nga nói trong e thẹn.
– Sợ gì mà không dám, bịnh của tôi đố trời mà cứu. Hơn nữa tôi với ông Võ đã ly thân.
– Có đúng và có nên như vậy không anh Võ ? – Nga hỏi dò xét.
– Đúng. Còn nên hay không chỉ tùy ở Nga – Võ vừa nói vừa liếc Nga, cả hai
cùng cười nhẹ nhõm.
Ngay tối hôm ấy, ông Võ đến hỏi thẳng Sa :
– Hồi chiều cô nói chơi hay thật vậy ?
– Thật đấy ! – Sa đáp gọn, vẻ nghiêm túc.
– Tôi với cô chỉ ly thân chớ đâu đã ly hôn ?
– Chuyện đó có gì khó, ông làm văn bản đi, tôi ký rồi ra tòa. Có điều con Yến
Nhi ở với tôi.
Cả ba ai cũng nôn, việc ly hôn và kết hôn được thực hiện xong trong vòng
non tháng.
Từ đó, ông Võ vui duyên mới, chẳng màng gì đến khốn khổ của mẹ con Sa. Có ý
kiến nhận xét về ông Võ : “Gây khổ cho người rồi quày quã ra
đi, không thèm ngoảnh mặt xem coi họ khóc thế nào” – quả là bậc thầy của những
kẻ đê tiện.
Do không biết dụng ý của Sa, gần như ai cũng cho rằng sa bịnh hoạn, không thủ nổi vai người
vợ, nhận cái thiệt về mình, đứng ra cưới vợ cho chồng. Với ông
Võ thì người ta liệt ông vào
hạng người ích kỷ, thiếu hẳn tính người, ví ông như con sói già đáng ghét, còn Sa như con nai tơ đáng thương.
Thế là : vừa tác giả, vừa đạo diễn, vừa diễn viên, đuối sức mòn hơi, cuối cùng Sa cũng đã chạm chân vào mức đến. Điều làm cho Sa vui là ly hôn
được với ông Võ, điều khiến Sa buồn và hổ thẹn là vô tình cô làm cho không ít
người ngộ nhận hiểu
sai, đánh giá cao về mình.
Có câu : “ Xấu che tốt khoe”, nhưng đừng quên rằng, con người xuất thân từ loài vượn hay khỉ gì đó nên có thuộc tính tò mò. Thế nên, thói thường người ta thích xem cái che
hơn xem cái khoe – càng che càng kích thích tính tò mò ấy – Giấu đầu sớm muộn gì cũng lòi đuôi. Bao việc
làm sai trái, bất nhân, thất đức của ông Võ dầu cố che nhưng thực tế có che được với mấy
ai.
Trong cuộc đời làm quan, từ chức tước, uy quyền đến lương bổng của ông đều do trên ban
phát. Do vậy, ông luôn nghĩ rằng việc thăng lương, tiến chức cho ông đều do cấp
trên định đoạt. Đối với cấp dưới ông xem là thuộc hạ, luôn có động thái chẳng
khác quan Thừa Sai thời Pháp thuộc cử đến để cai trị đám dân đen. Ông nào có biết
: mình có tại vị được hay không quyết định
vẫn là do uy tín cá nhân – khi uy tín cá nhân bị sụp đổ thì uy quyền do trên
ban cũng sụp đổ theo. Khi uy tín cá nhân bị sụp đổ, lẽ ra ông Võ nên xuống
thang, đàng nầy ông leo tiếp, sử dụng tối đa quyền uy do trên ban. Lắm lúc ông
khạt ra lửa mà thuộc hạ vẫn trấm trơ.
Lại có câu : “Làm đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng”. Cục Thống
kê là phương thứ mười (10)
dành cho ông Võ. Trên cho ông cơ hội cuối cùng, thu lại ghế Chủ
nhiệm Ủy ban Kế hoạch rồi độn vào đít ông ghế Cục Trưởng Cục Thống kê.
Ông Võ sang Cục Thống kê, Sa hỏng chân, chẳng lẽ cứ mãi ngồi chơi xơi nước, Sa xin nghỉ việc rồi
cùng với Yên Nhi về quê “vá lại vết rách gia đình” và khôi phục sức khỏe do hậu quả của việc ép xác.
Sau khi nghe Sa nói mục đích của việc ly hôn giữa cô và ông Võ, bà Sương ôm Sa vào lòng, nói : “Điều từ lâu mẹ muốn, nay con đã làm, ông
bà ngoại và ba con chắc cũng đã vui lòng nơi chín suối”.
Từ lâu Sa như cây thiếu nước,
thiếu phân, chỉ cần tưới nước, bón phân nó sẽ tươi tốt. Quả vậy, đời sống tinh
thần, vật chất được cải thiện, sức khỏe Sa phục hồi nhanh, trả lại cho cô sắc đẹp
thiên phú, một sắc đẹp cho dầu chuyên gia thẩm mỹ hay những hãng mỹ phẩm cũng khó tìm chỗ xen vào. Mấy người đàn ông trong xóm nhìn Sa vui miệng trầm trồ : “Gái một con trông mòn con
mắt”.
Một hôm, Tuyết bạn gái cùng lớp, cùng trường với sa đến thăm, thấy cảnh
gieo neo của mẹ con Sa, Tuyết gợi ý :
“Sao mầy không khai để được công nhận con liệt sĩ, ít ra cũng dễ xin việc làm,
cứ lặng thinh ai mà biết”. Sa lắc đầu nói giọng trầm buồn : “Tao không xứng
đáng. Tao sợ người ta biết tao con liệt sĩ hơn sợ họ không công nhận”.
Cuối năm 1986, thời điểm bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế – từ bao cấp
sang thị trường, Tuyết đến rủ Sa về lại thành phố Mỹ Tho hùn vốn mở quán “ăn uống”
tại khu nhà Tuyết. Bà Sương chẳng những đồng ý cho Sa cùng Tuyết
mở quán kinh doanh, còn nhận chăm sóc Yến Nhi.
Chỉ một tháng sau, quán “Tuyết Sa” khai trương. Bia BGI gặp thời, quán Tuyết
Sa cũng được vận, khách ra vào không ngớt. Tuyết Sa mở rộng qui mô, thuê thêm
người, nghiễm nhiên Tuyết và Sa trở thành hai cô chủ. Việc mua bán của hai người
phất lên như diều gặp gió.
Tuyết và Sa cùng tuổi, họ thương nhau như thương thân, tin nhau như tin mình. Đã bước vào tuổi ba
mươi mà vẫn xưng hô với nhau nếu không bằng tên thì mầy tao. Tối hai người ngủ chung mùng, nẹo nhau như
rắn. Bữa nọ, gần sáng Tuyết ôm chặt Sa cất giọng : “Gió Đông ơi đừng thổi nữa,
lòng ta đã lạnh lắm Gió Đông ơi…”. Sa vỗ vào mông Tuyết gắt :
– Hỏng để người ta ngủ, bộ lên cơn rồi sao ?
– Cơn cái con khỉ,
tính ngân nga vài câu “Tình anh
bán chiếu” cho đỡ lạnh – làm cụt hứng.
Như sực nhớ, Tuyết khiều
Sa nói : Ờ mà Sa nè, tình thật mà nói, tao thích bản chất chớ
không thích hình thức của mầy.
– Chưa hiểu, nói rõ hơn – Sa vặn hỏi.
– Nam giới thích nhìn mầy hơn nhìn tao, Đi chung, sống chung với mầy tao
chỉ có lỗ.
– Nếu bắt gặp Yến Nhi gọi tao bằng mẹ thì họ sẽ đổi hướng nhìn thôi. Đừng
ham, sắc đẹp đôi khi là cái họa.
Lật bật Yến Nhi đã đến tuổi đi học, Sa bàn với mẹ bán nhà và đất rồi phụ
thêm tiền mua căn nhà trong hẽm gần quán Tuyết Sa. Người sống, người chết gom hết về
đây cho tiện bề nhang khói và nuôi dưỡng. Hàng ngày Sa ra quán, bà Sương đưa rước
Yến Nhi vô ra trường rồi lo việc nhà. Họ ăn chung mâm, ngủ chung mùng, người sống,
người chết bên nhau- một sự sum hợp dù tạm bợ nhưng trọn vẹn. Đêm nào cũng vậy,
khi ngủ Yến Nhi xen vào giữa, nó nói để nó làm “nhưn”. Nó nằm ngữa nguời, tay
chân chia đều cho mỗi bên, miệng tíu tít như con chim non.
Ngồi vào ghế Cục trưởng Cục Thống kê, vẫn chứng nào tật nấy, ông Võ cố bám lấy chức quyền trên ban để thao túng, tác oai
tác quái. Quá sức chịu đựng, nhiều người trong cơ quan phải kêu lên : “Bộ hết
người sao mà đưa thằng
cha chẳng ra gì đến đây làm thủ trưởng”. Tiếng kêu bất bình ấy động đến “thiên đình”, làm cho những người ban chức quyền cho ông Võ lo lắng.
Người ta ban chức tước
cũng có nghĩa là ban cả quyền uy. Chức tước và quyền uy đồng hành trong tồn tại
hay tiêu vong. Ông Võ làm cho quyền uy bị sụp đổ (tiêu vong)
thì chức tước của ông không còn lý do để tổn tại – Có giữ cũng chỉ là hư vị. Lần nầy trên ký quyết định cho ông nghỉ hưu là có nương tay. Thế mà ông còn thắc mắc đủ điều, đòi bớt một thêm hai. Về Phường sinh hoạt chỉ một phiên, ông
“đường mật” sao đó, lộn vào làm “cố vấn” cho một cơ quan cấp Tỉnh. Có người mỉa
mai : “Cuộc đời ông Võ gẫm cũng sướng, hết làm cha rồi làm cố”. Thế
rồi dựa vào cấp bằng, học vị, ông vẽ “rồng, rắn” rồi “chấm phết”. Chẳng
bao lâu, ông lươn lẹo tiền bạc và sai phạm một số việc hệ trọng khác, phải ra tòa lãnh án tù 4 năm. Cay đắng hơn, ngày ông vào tù cũng
là ngày bà Nga giáp mặt đơn phương tuyên bố : “Kể từ bây giờ, tôi không còn là
vợ của ông”.
Từ ngày vào tù đến khi được đặc xá, ông Võ chấp hành án 2 năm 4 tháng. Thời
gian ấy có đến 110 lần ông nhận quà thăm nuôi do giám thị giao, không cho biết
người gởi. Đó là điều 12 năm qua(1990 – 2002) ông Võ (người nhận) muốn biết. Đó cũng là
điều bà Sương và Lệ Sa (người gởi) cố giấu.
“Khỏi lỗ vỗ vế” là thói quen của ông Võ, vậy thì ông muốn biết ai gởi quà hẳn
là không phải để đền ơn đáp nghĩa, có thể để thỏa mãn tính hiếu kỳ, để biết kẻ
điên ấy là ai, còn kiếm chác được gì ở họ nữa không … Bà Sương và Sa gởi quà cho ông Võ xuất phát từ trái tim nhân hậu chớ không phải trái
tim yêu. Họ “Thi ân bất cầu báo”. Sở dĩ họ cố giấu việc ấy vì sợ ông Võ hiểu lầm
quà đó xuất phát từ trái tim yêu.
Mỹ Tho, 12/05/2017
Thiện Tùng
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire