Nguyễn Quang Dy
“Chỉ có những kẻ khôn ngoan nhất và ngu
xuẩn nhất là không thể thay đổi” (It is only the wisest and the stupidest
that cannot change). (Confucius, 551-479 BC)
Có thể nói ngay (mà chưa cần phân tích)
là Việt Nam cô đơn và lạc trong một trật tự thế giới mới bất an và bất định, của
một thế giới “không phẳng” (xin lỗi Tom Friedman). Nhiều nước cũng khốn đốn
(như Venezuela) chứ không riêng Việt Nam. Nhưng Việt Nam đang trong một tình thế
hiểm nghèo (vì Trung Quốc đè) và có đặc thù riêng cần làm rõ. Chủ nghĩa “đặc
thù” (exceptionalism) và “tiệm tiến” (Gradualism) cùng với chủ
nghĩa “cực đoan” (extremism) và “giáo điều” (dogmatism), chính là
những rào cản trước đòi hỏi đổi mới và tiến bộ. Sau nhiều năm cố gắng đổi mới
và hội nhập với thành quả đáng kể, Việt Nam đang tụt hậu so với láng giềng. Tuy
có nhiều tài nguyên và nguồn nhân lực, nhưng đất nước đang kiệt quệ về tài
chính và phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy hô khẩu hiệu “làm bạn với tất cả”,
nhưng Viêt Nam vẫn “thân cô thế cô” (Bill Hayton), bị bắt nạt nhưng
không có đồng minh bênh vực. Trong khi sa vào “bẫy thu nhập trung bình”, Việt
Nam vẫn chưa chịu thay đổi thể chế.
Trật tự thế giới mới
Năm 2016 được đánh dấu bởi hiện tượng “Brexitism”
(tại Anh) và Trumpism (tại Mỹ). Đó là một xu thế mới tạo ra một
bước ngoặt lịch sử, và mở ra một thời kỳ mới, không chỉ đối với Anh mà cả Cộng
đồng Châu Âu, không chỉ đối với Mỹ mà cả thế giới. Toàn cầu hóa đang bị thách
thức bởi chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các giá trị và thành quả của nó đang
bị phản bác. Tự do thương mại bị thay thế bởi chủ nghĩa biệt lập (như America
First). Các giá trị dân chủ tự do (liberal democracy) bị thách thức, và
nhân quyền bị coi nhẹ. Trật tự thế giới đang thay đổi như một số học giả đã từng
cảnh báo trong cuốn “The End of History” (Francis Fukuyama) hay “The
End of Power” (Moises Naim). Tuy có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng hầu
hết đều nhất trí là trật tự thế giới mới bất an và bất định, thậm chí “vô chính
phủ” (Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign
Affairs, February 15, 2016).
Trong khi phương Tây và Mỹ đi xuống
(falling), thì phương Đông đi lên (rising) với sự trỗi dậy đầy ấn tượng của
Trung Quốc. NATO và EU phân hóa do tác động của Brexitism & Trumpism. Sau
khi Anh rút khỏi EU, Pháp cũng lao đao, còn Đức phải suy nghĩ lại về an ninh của
mình. Trong khi đó, Trung Quốc tranh thủ cơ hội, thách thức Mỹ và trật tự thế
giới do Mỹ cầm đầu, với “Giấc mộng Trung hoa” (China Dream) và bàn cờ lớn
“Một Vành đai, Một Con đường” (One belt, One road). Hiện nay, bán đảo
Triều Tiên, Biển Hoa Đông, và Biển Đông đã trở thành những điểm nóng như “thùng
thuốc súng” (powder kegs). Trước sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc và sự
rút lui của Mỹ, Nhật buộc phải tự lo cho an ninh của mình bằng cách sửa đổi Hiến
pháp (điều 9) để có thể tái vũ trang. Đây là một thay đổi rất lớn trong bức
tranh địa chính trị Đông Á, có thể làm thay đổi cục diện chiến lược tại khu vực.
Trong bối cảnh đó, nhiều nước phải điều
chỉnh thể chế và chính sách để thích ứng với môi trường và trật tự thế giới mới.
Nhưng với nhiều người, thay đổi tư duy “đặc thù” là việc không hề dễ. Người ta
vẫn hành xử như “thời chiến tranh lạnh”, ngộ nhận về quyền lực và vị thế của
mình, mà không lường được hệ quả. Sự ngạo mạn và ngộ nhận quyền lực không đúng
lúc, đúng chỗ, sẽ dẫn đến tai họa. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một ví dụ.
Mỹ có thể cử biệt đội SEAL xâm nhập
Pakistan để tìm diệt Osama Bin Laden (2/5/2011), và Trung Quốc cũng có thể cử
các biệt đội “Săn Cáo” (Fox Hunt) sang Mỹ và các nước khác để săn lùng
các quan chức tham nhũng của họ đang lẩn trốn. Nhưng Việt Nam không phải là Mỹ
hay Trung Quốc. Mình phải tự biết mình là ai và đang ở đâu. Lúc này, Việt Nam
đang trong một tình thế đầy hiểm nghèo, cả về kinh tế lẫn chủ quyền Biển Đông.
Trong một quan hệ bất đối xứng (asymmetric) các nước nhỏ hơn và yếu hơn càng phải
thao lược. Nói cách khác, đừng nên quá sợ Trung Quốc, nhưng cũng đừng nên coi
thường Đức, là đối tác chiến lược quan trọng nhất trong số các nước EU (nhất là
sau khi Mỹ rút khỏi TPP).
Theo các chuyên gia, Trung Quốc đã ứng dụng
“Tam chủng Chiến pháp” (Three Warfares doctrine) bao gồm “chiến tranh
tâm lý” (psywar), “chiến tranh pháp lý” (lawfare), và chiến
tranh truyền thông (media warfare), để đạt được mục tiêu chiến lược. Theo
binh pháp Tôn Tử, thượng sách là “thắng mà không cần đánh” (winning without
fighting). Trung Quốc quen dọa nạt và bắt nạt (bluffing and bullying) các
nước láng giềng tại Biển Đông, cũng như tại Doklam (nơi đang diễn ra xung đột
giữa Trung Quốc với Ấn Độ và Bhutan). (Brahma Chellaney, “Calling the
Chinese bully’s bluff”, Project Syndicate, August 8, 2017).
Việt Nam đi về đâu
Trong giai đoạn đổi mới lần thứ nhất (từ
1986), đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính Châu Á (từ 1997), khi kinh tế một
số nước bị đình trệ thì Việt Nam nổi lên như “con hổ mới” ở Châu Á. Nhưng đáng
tiếc là chưa đầy 10 năm dưới thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), kinh tế
Việt Nam chưa kịp cất cánh thì đã lụn bại. “Con hổ mới” đã biến thành “con mèo
hoang”. Các nhóm lợi ích thân hữu đã lợi dụng thể chế độc quyền độc
đảng để lũng đoạn và tham nhũng, biến các tập đoàn kinh tế nhà nước (những “quả
đám thép”) thành gánh nặng thua lỗ và nợ nần (như Vinashin). Mô hình kinh tế
thị trường “định hướng XHCN” đã đẻ ra một thứ quái thai là “tư bản đỏ”.
Các nhóm lợi ích được chính quyền bảo kê đã kết hợp “CNXH thân hữu” (là cái vỏ)
với CNTB hoang dã (là cái ruột) trong một cuộc hôn phối vụ lợi. Đoàn tàu cách mạng
Việt Nam đã bị chúng bắt cóc và bẻ ghi chạy theo một hướng khác.
Trong khi Trung Quốc cải cách kinh tế
thành công và “cất cánh” với mô hình phát triển mang “bản sắc Trung Quốc”, được
các học giả phương tây gọi là “nền độc tài bền vững” (resilient
authoritarianism), thì Việt Nam thất bại. Nguyên nhân vừa do thể chế bất cập
(structural gaps) giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, vừa do điều
hành tồi (operational failure) và quản trị kém (poor governance)
cộng với tham nhũng tràn lan. Một khi quyền lực và tham nhũng không bị kiểm
soát, thì nó sẽ hoành hành như con quái vật Frankenstein bị xổng. Tư duy “kiểu
Việt Nam” dựa trên sự ngộ nhận về tính “đặc thù” (exceptionalism) và tư
tưởng “giáo điều” (dogmatism), bị các nhóm lợi ích lợi dụng và thao túng
để trục lợi.
Cải cách hành chính bị vô hiệu hóa bởi
chống đối ngầm (passive resistance). Luật doanh nghiệp bị gây khó dễ bởi
các loại “quy trình” và “giấy phép con” (thậm chí vi hiến) được các bộ ngành và
địa phương đặt ra để trục lợi (rents seeking). Mọi việc đều bị chính trị
hóa. Thói quen tư duy (mindset) “kiểu Việt Nam”, và cách làm việc “không giống
ai” đã bị dập khuôn thành “quy trình” dựa trên danh nghĩa “hệ tư tưởng XHCN”
(như bất khả xâm phạm), nên rất khó thay đổi. Ví dụ cái “loa phường”,
ai cũng biết là đã quá lỗi thời, nhưng đến tận bây giờ người ta vẫn chưa từ bỏ.
Đó là những sản phẩm ý thức hệ từ thời “chính trị là thống soái”.
Kết quả là tài nguyên thiên nhiên (“rừng
vàng biển bạc”) đang cạn kiệt dần. Trong khi dầu khí, than đá, kim loại (và kể
cả cát) sắp hết, thì ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, nhiều nơi tới mức báo động,
như bờ biển miền Trung (bị ô nhiễm bởi Formosa), hoặc không khí ô nhiễm tại Hà
Nội. Tài chính quốc gia đang cạn kiệt: ngân sách thu không đủ chi, dự trữ quốc
gia chỉ đủ trả nợ đến hạn. Chính phủ không biết lấy tiền từ đâu để đầu tư phát
triển, trong khi viện trợ phát triển (ODA) đang cạn dần. Nạn tham nhũng tràn
lan đã làm giảm tín nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, và lòng tin của
người dân cũng đang cạn kiệt. Nhiều người cảm thấy bất an và bất lực đành “bỏ
phiếu bằng chân”. Mỗi năm có khoảng một trăm ngàn người bỏ đất nước ra đi. Họ
có thể là doanh nhân, trí thức, hay quan chức. Dòng người di cư ngày càng đông
đã gây ra nạn chảy máu chất xám và thất thoát tài chính. Cũng như người Trung
Quốc, người Việt đang đổ xô di cư sang Mỹ, Canada, Úc, Anh, và các nước phương
Tây khác.
Khủng hoảng kép
Trong tháng 7/2017, có hai sự cố như “khủng
hoảng kép” (double crises) vào thời điểm nhạy cảm, đặt Việt Nam vào thế mắc kẹt.
Thứ nhất là khủng hoảng do khoan dầu tại Biển Đông. Việt Nam đã yêu cầu Repsol
ngừng khoan thăm dò lô 136-03 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước sức
ép của Trung Quốc đe dọa tấn công các cứ điểm Trường Sa nếu Việt Nam không chịu
dừng. Dù ngừng tạm thời hay lâu dài, Việt Nam khuất phục Trung Quốc về quyền
khai thác dầu khí, do không có đồng minh bảo vệ, và không đủ sức mạnh răn đe.
Thứ hai là khủng hoảng ngoai giao Viêt-Đức. Việt Nam đã dùng hạ sách bắt cóc Trịnh
Xuân Thanh tại Berlin và đưa về nước (theo thông báo của phía Đức) “như một
bộ phim hành động thời chiến tranh lạnh”. Đức đã phản ứng mạnh mẽ, lên án
Việt Nam vi phạm luật pháp Đức và quốc tế một cách “trắng trợn” (blatant) và
“chưa từng có” (unprecedented).
Vụ bắt cóc này đang dẫn đến những hệ quả
nghiêm trọng chưa lường hết, vì cả hai phía đều đang bị mắc kẹt. Chính phủ Đức
coi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là “không thể chấp nhận được” (unacceptable) và
“không thể bỏ qua”. Đức đang đặt mọi phương án trừng phạt Việt Nam lên bàn (và
chờ thái độ phản ứng của Việt Nam), đúng lúc Việt Nam cần Đức ủng hộ Hiệp định
tự do thương mại (EVFTA), cũng như tranh chấp tại Biển Đông. Đức là đối
tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam tại EU. Đối với Việt Nam, EU
là đối tác thương mại lớn thứ hai sau Trung Quốc và là thị trường xuất khẩu lớn
thứ hai sau Mỹ. Thương mại song phương Viêt-Đức tăng từ $10 tỷ (2006) lên $48 tỷ
(2016). Sau khi TPP bị Mỹ bỏ rơi, thì có lẽ EVFTA là cái phao cứu sinh duy nhất
đối với Việt Nam. Nhưng, thủ tướng Angela Merkel có thể gây áp lực với các nước
EU phủ quyết EVFTA cho Việt Nam (dự kiến năm 2018).
Hiện nay, Viêt Nam đang bị bao vây bởi
quá nhiều vấn đề nan giải (như “thập diện mai phục”). Nhưng nan giải và bức xúc
nhất vẫn là vấn đề nợ công và Biển Đông. Việt Nam làm thế nào để trả nợ và đối
phó với nguy cơ vỡ nợ (nếu mất khả năng thanh toán) hay nguy cơ xung đột Biển
Đông do tranh chấp chủ quyền và khai thác dầu khí (không thể nhân nhượng)? Liệu
Trung Quốc có dám tấn công Trường Sa (như năm 1988) hay chỉ hù dọa bắt nạt Việt
Nam, theo kế “rung cây dọa khỉ” và “bất chiến tự nhiên thành” (trong Binh pháp
Tôn Tử)?
Tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN-50
(Manila, August 5-8, 2017), mặc dù bị cô lập trong lập trường về Biển Đông, và
trước sức ép của Trung Quốc, nhưng đoàn Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh. Cuối
cùng hội nghị ASEAN vẫn ra được Thông cáo Chung phản ánh được phần nào quan điểm
cứng rắn của Việt Nam về Biển Đông và về quy tắc ứng xử (COC), làm Trung Quốc tức
giận, hủy cuộc gặp chính thức giữa hai ngoại trưởng. Tuy nhiên, Thông cáo Chung
của ba ngoại trưởng Mỹ, Nhật, Úc (Manila, 7/8/2017) có nội dung và lời lẽ cứng
rắn hơn nhiều so với Thông cáo Chung của các ngoại trưởng ASEAN (6/8/2017). Ba
ngoại trưởng đã lên án hành vi “bồi đắp đảo và quân sự hóa các thực thể đang
tranh chấp”, và kêu gọi “quy tắc ứng xử Biển Đông phải ràng buộc pháp lý, thực
chất và hiệu quả”. (Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions
flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017
Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin
tuy táo tợn nhưng “chuyên nghiệp một cách vụng về” (too good too be true).
Thứ nhất, họ tiến hành giữa ban ngày tại công viên có nhiều người qua lại (rất
lộ liễu). Thứ hai, họ để lại smart phone tại hiện trường (có chứng cứ). Thứ ba,
họ thuê xe có cài đặt thiết bị GPS chống trộm (dễ phát hiện). Thứ tư, họ đưa Trịnh
Xuân Thanh vào Đại Sứ Quán Việt Nam (theo thông báo của Đức). Không biết đây là
do sơ xuất của những người thực hiện, hay là họ làm theo kịch bản của một
đạo diễn “cao tay”, cố ý diễn kịch để khiêu khích chính phủ Đức. Có lẽ đây
là một nước cờ “gambit” trong “trò chơi vương quyền” (game of thrones) đầy
bí ẩn “kiểu Việt Nam”, trong khi có “đợt sóng ngầm” (theo Lê Hồng Hiệp) đang diễn
ra trước Đại hội Đảng Giữa kỳ. Khủng hoảng ngoại giao do sự kiện này gây ra sẽ
tác động tiêu cực đến quan hệ Viêt Nam với Đức (cũng như với EU), làm cho quá
trình hội nhập và hợp tác quốc tế của Việt Nam càng thêm khó khăn. Nó vừa phản
ánh khủng hoảng chính trị và đấu tranh quyền lực tại Việt Nam đã tới đỉnh điểm,
vừa bộc lộ khủng hoảng truyền thông và đấu đá phe phái, với nhiều “tin vịt”
(fake news) làm thật giả lẫn lộn.
Giải pháp khả thi
Gốc rễ của vấn nạn tham nhũng là do chế
độ độc quyền, độc đảng, bị các nhóm lợi ích thân hữu thao túng để trục lợi.
Trong một chế độ không có pháp quyền mà chỉ có đảng trị, thì không thể kiểm
soát được quyền lực, vì những người cầm quyền tự cho mình đứng trên pháp luật
và thao túng mọi quyền lực và nguồn lực xã hội, dẫn đến tha hóa quyền lực, bất
công xã hội và mất lòng dân. Nếu bắt và xử được một Trịnh Xuân Thanh thì sẽ có
mười Trịnh Xuân Thanh khác, nếu không thay đổi thể chế chính trị. Vì vậy, để
thúc đẩy cải cách thể chế (vòng hai), Việt Nam cần tập hợp những “nhân tố thay
đổi” (change agents) trong nước và ngoài nước thành một liên minh những
người cùng chủ trương cải cách thể chế (a coalition of like-minded
institutional reformers). Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng vừa thành lập là
một ý tưởng đúng hướng (nếu đó là thực chất), vì một chính phủ “Kiến tạo”
(Constructive government).
Đối với Việt Nam, lúc này có lẽ Nhật là
đối tác chiến lược quan trọng nhất làm đối trọng trước sự bành trướng và bá quyền
của Trung Quốc tại Biển Đông, khi Mỹ không còn đáng tin cậy. Nhật không phải chỉ
là một cường quốc kinh tế, mà còn là một cường quốc quân sự, sẵn sàng hỗ trợ
các nước Đông Nam Á duy trì cân bằng quyền lực tại khu vực này. Lợi ích an ninh
của Nhật tại Biển Hoa Đông song trùng với lợi ích chiến lược của họ tại Biển
Đông, nên cam kết an ninh của Nhật đối với Việt Nam và khu vực chắc bền vững và
đáng tin cậy hơn.
Vì Chính quyền Trump đã quyết định rút
khỏi TPP và có thể giảm cam kết an ninh với Châu Á, nên việc các nước khu vực hợp
tác chiến lược mạnh mẽ hơn với Nhật càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết để lấp
vào chỗ trống đó. Các nước không chỉ cần tăng cường quan hệ song phương mà còn
phải lập ra một “Mạng lưới An ninh trên Nguyên tắc” (Principled security
network) như Tổng thống Barack Obama đã từng gợi ý, hoặc một “Mạng lưới
Liên kết mở” (Mesh Networks) như Anne-Marie Slaughter & Mira
Rapp-Hooper mới đề cập gần đây (“How America’s Asian Allies Can
Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017).
Cơ chế của một mạng lưới an ninh khu vực
như vậy phù hợp với mô hình an ninh tập thể và đối tác chiến lược, nhằm đảm bảo
sự tồn tại bền vững. Theo Anne-Marie Slaughter, ngay cả khi “một khâu bị đứt
thì hệ thống vẫn tồn tại”. Quan hệ an ninh song phương được tăng cường giữa
Nhật với Việt Nam cũng như các nước khác (như Mỹ, Ấn, Úc) là nòng cốt để xây dựng
một “Đối tác Chiến lược cùng Quan điểm” (Like-Minded Strategic Partnership)
bao gồm Mỹ-Nhật-Ấn-Úc và Việt Nam (AJIA+V). Một liên minh bền vững như vậy là một
đảm bảo thiết yếu cho sự thiếu hụt cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực, cũng
như là một răn đe hiệu quả đối với mối đe dọa ngày càng lớn của Trung Quốc tại
Biển Đông. Trong bối cảnh đó, thỏa thuận Mỹ sẽ cho tàu sân bay thăm Cam Ranh
(năm 2018) qua chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch (7-10/8/2017)
tiếp theo chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, (31/5/2017) là một dấu hiệu
răn đe, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changer).
Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác cũng
không thể một mình đương đầu với Trung Quốc. Các nước có cùng lợi ích chiến lược
tại Biển Đông phải liên kết lại trong một liên minh để răn đe và ngăn chặn
Trung Quốc bành trướng. Muốn duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông,
không thể trông chờ vào Trung Quốc và ASEAN thỏa thuận một bộ quy tắc ứng xử
(COC) có hiệu lực. Trong mấy năm nữa, ít nhất cho đến hết nhiệm kỳ của Tổng thống
Donald Trump, khi khu vực còn nghi ngờ vào các cam kết của Mỹ, nếu các nước này
không hình thành được một liên minh gồm các nước có chung lợi ích chiến lược
như vậy, để đối phó với Trung Quốc, thì sẽ là quá ít và quá muộn (như bài học
dưới thời Tổng thống Barack Obama).
Thay lời kết
Những người cực đoan giống con gà trống.
Mỗi lần nó gáy thì thấy mặt trời mọc, nên nó ngộ nhận tưởng là do mình gáy nên
mặt trời mọc. Vì vậy, nếu nó chưa gáy mà mặt trời đã mọc thì nó rất tức tối,
cho rằng mặt trời sai, chưa gáy đã mọc. Những người cực đoan thường bảo thủ, với
tư duy “đặc thù”, nên không chịu lắng nghe. Họ có xu hướng luôn khẳng định mình
là đúng, còn những người khác là sai. Vì tư duy cực đoan và giáo điều, họ tin rằng
chỉ có họ mới có quyền phán quyết đúng sai. Những ai không giống họ và không
theo họ đều bị coi là phản động và thù nghich. Vì họ không chấp nhận đa nguyên,
nên khẩu hiệu “thêm bạn bớt thù” là vô nghĩa. Nếu không tỉnh ngộ và thay
đổi thì Việt Nam rất khó hội nhập, sẽ cô đơn không có bạn bè mà chỉ có kẻ thù.
Ngay bạn bè và đồng minh cũng có thể biến thành kẻ thù.
Chính quyền Việt Nam tỏ ra quyết liệt chống
tham nhũng (tuy nhắm vào những đối thủ chính trị nhất định) nhưng lại không chịu
thay đổi thể chế chính trị (là nguyên nhân đẻ ra ra tham nhũng). Trong khi chống
tham nhũng, lãnh đạo Việt Nam sợ đánh “vỡ bình” (chế độ) nhưng lại sẵn sàng
đánh chìm cái thuyền kinh tế & đối ngoại (là cái phao cứu sinh). Câu chuyện
bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Berlin là một ví dụ, bất chấp luật pháp của Đức và
quốc tế, có thể bị Chính phủ Đức trừng phạt, tuy Đức là đối tác chiến lược quan
trọng nhất của Việt Nam tại EU. Khủng hoảng bất ngờ trong quan hệ Đức-Viêt thật
không đúng lúc khi Việt Nam rất cần Đức và EU để ủng hộ EVFTA, và bênh vực Việt
Nam đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Trong khi hô khẩu hiệu “làm bạn với
tất cả”, Việt Nam đang biến một đối tác tốt thành thù địch. Đây là một nghịch
lý chết người, mà chỉ có thể hóa giải được bằng thay đổi thể chế.
Quyền lực và tham nhũng là hai thứ khó
kiểm soát, nếu không quyết thay đổi thể chế bằng cách thay mô hình đảng trị (party
rule) bằng pháp trị (rule of law) và pháp quyền (rule by law).
Nếu quyền lực không bị kiểm soát nó sẽ tiếp tục đẻ ra tham nhũng, do quản trị yếu
kém và thiếu minh bạch. Đó là nguyên nhân chính làm kinh tế thị trường “định
hướng XHCN” bị méo mó, đi trệch đường ray phát triển. Từ mô hình phát triển
(growth model) để “hóa rồng/hóa hổ” Việt Nam đã biến thành “con mèo
hoang”, với mô hình thất bại (failed state). Đó là bài học đắt giá từ những
“diễn biến tiêu cực” trong một thập kỷ qua, làm triệt tiêu thành quả đổi mới của
hai thập kỷ trước đó, làm Việt Nam vẫn sa lầy tại ngã ba đường ý thức hệ.
Tham khảo
1. Le Hong Hiep, “Asia’s Evolving Security Order”, Project syndicate, August 7, 2017
2. Brahma Chellaney, “Calling
the Chinese bully’s bluff”, Project Syndicate, August 8, 2017
3. Laura Zhou, “China Vietnam
maritime tensions flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP,
August 7, 2017
4. Anne-Marie Slaughter & Mira Rapp-Hooper, “How America’s Asian Allies
Can Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017
5. Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming
Anarchy”, Foreign Affairs, February 15, 2016
6. Moises Naim, “the End of Power”,
Basic Books, New York, 2013
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire