Ảnh mình chụp bên trong nhà hát hai chục nghìn tỷ Elbphilharmonie tại Hamburg, khán phòng chính 2100 chỗ. |
Bài viết này cố gắng bao quát hai khía cạnh hẹp của mối quan hệ đặc biệt
giữa các Nhà hát và Thành phố, trong thời gian gần đây đã thu hút được sự chú ý
của dư luận đối với dự án xây nhà hát nghìn tỷ tại Thủ Thiêm.
Trước hết, Nhà hát là yếu tố quan trọng trong thiết kế tổng thể cho mọi đô
thị. Mối quan hệ của nó với một Thành phố đã được xác lập từ thời cổ đại, khi
mà các thị trấn và thành phố thịnh vượng tự hào về những tòa nhà công cộng
tráng lệ trong đó có các khán đường công cộng (khán phòng ngoài trời –
Amphitheater) là những ví dụ dễ thấy. Ở thời kì Phục Hưng, lịch sử cho thấy
rằng đã xuất hiện những sự quan tâm mới trong các nhà hát, nơi mà không chỉ là
nơi diễn ra các vở kịch mà còn là nơi hấp dẫn đối với giới thượng lưu. Có một
thực tế ở giai đoạn này, đó là khi một thành phố trở nên dư thừa về của cải vật
chất và cơ sở hạ tầng được đầu tư dài hạn đã đạt đến độ chín của nó, thì các
nhà hát xuất hiện như một sự củng cố về các khoản đầu tư trung hạn. Mặt khác,
Nhà hát còn là đại diện cho tinh hoa về văn hóa, nghệ thuật- những giá trị mà
tiền bạc không thể mua được. Do đó, mặc dù có bản chất là một Kiến trúc bất
động (immobility architecture) nhưng Nhà hát đã tạo ra một dạng sống trong lòng
nó và ở cả ở bên ngoài nó. Cho dù Nhà hát nằm ở trung tâm hoặc ở bên lề của một
Đô thị thì nó luôn có liên quan sâu sắc đến cấu trúc và sự tương tác có ý nghĩa
dân sự.
Sang đến thời hiện đại, các Nhà hát dường như rũ bỏ lớp vỏ diêm dúa, hào
nhoáng - vốn dành để tượng trưng cho sự dư thừa về của cải vật chất của giới
thượng lưu. Thay vào đó, các nhà hát được thiết kế hướng tới số đông quần chúng
nhưng vẫn đảm bảo khả năng làm việc như một điểm nhấn của Đô thị. Các ví dụ có
thể lấy ra như Nhà hát Sydney hoặc nhà hát Oslo với đường dốc thẳng từ vịnh
biển lên đến mái. Đường dốc này cung cấp cho quần chúng một chuỗi các khả năng
cho hoạt động ngoài trời, hoàn toàn tự do và cung cấp chất lượng cuộc sống ở
mức cao một cách miễn phí (đối với các không gian ngoài trời). Gần đây, sau 20
năm đàm phán xây dựng, nhà hát ElbPhilharmonie tại vịnh Hamburg do Văn phòng
KTS Thụy Sĩ Herzog & de Meuron thiết kế đã khánh thành với kinh phí lên tới
789 triệu Euro (tương đương 22 nghìn tỷ VND). Sau khi hoàn thành, nhà hát này
đã đón hơn 4 triệu lượt khách tới xem chỉ trong năm đầu tiên (tương đương một
ga hàng không). Cũng giống với nhà hát Oslo, Elbphilharmonie cung cấp một
platform ở trên mái của khu vực hành chính, ra vào hoàn toàn miễn phí và tạo ra
một điểm nhìn toàn cảnh vịnh cảng và đường chân trời của cả thành phố. Trong
những tháng đầu đi vào hoạt động, cá nhân mình có kiếm được một vé mời đi xem
kịch ở nhà hát này. Khi nói chuyện với bạn bè, các bạn rất bất ngờ và tỏ ra
ghen tị, sau đó mình kiểm tra lại và được biết rằng vé vào xem tất cả các show
diễn của nhà hát đã được đặt hết trong khoảng 2 năm trở lại. Qua ví dụ nhỏ đó,
ta thấy rằng một nhà hát gần như được coi là một dạng văn bản đô thị, nó có
tính đại diện và sẽ thành công khi đạt được tính đại diện.
Đằng sau sự thành công cả về khía cạnh văn hóa vẫn kinh tế của các Nhà hát
nổi tiếng trên, chúng ta có thể nhận ra rằng xuyên suốt chiều dài lịch sử, Nhà
hát, được coi là một hạng mục đầu tư trung hạn trong một Đô thị, khi mà Đô thị
đó đã đạt đến độ chín trong các khoản đầu tư dài hạn (cơ sở hạ tầng, đường xá,
không gian công cộng). Nói như các thầy giáo Kiến trúc sư già cả thì Nhà hát nó
giống như quả sơ-ri nằm trên đỉnh của một chiếc bánh ga-tô. Quả sơ-ri đó luôn
là thứ đầu tiên mà người ta nhìn vào và xuýt xoa tán thưởng nhưng cần phải nhớ
là nó luôn nằm trên 1 chiếc bánh ga-tô (với ngụ ý về các khoản đầu tư dài hạn,
tạo nền móng của một đô thị). Hẳn nhiên, ta sẽ không bắt gặp một quả sơ-ri nào
nằm trên những miếng vụn bánh, hoặc có thể cũng có nếu ai đó cố làm, nhưng
người ta sẽ chẳng bao giờ để tâm tới nó. Nhìn vào khối đô thị Hamburg, ta thấy
đó là cả một khối thống nhất, đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, phúc lợi, nhà ở, hệ
thống giao thông công cộng và không gian công cộng. Tất cả mọi thứ được nghiên
cứu bài bản và thực hiện triệt để qua nhiều năm với nguồn vốn dồi dào. Du khách
khi đến thăm thành phố, điều đầu tiên họ nghĩ đến có thể chính là Nhà hát
Elbphilharmonie nằm trên mũi vịnh với tên gọi Hafencity (thành phố Cảng). Tất
nhiên, đó là trong con mắt của quần chúng, của khách du lịch phương xa. Người làm
quản lý và quy hoạch thì lại không nên có cách nhìn đó. Nói cách khác, nhà hát
Elbphilharmonie là kết cục trong cả một tiến trình phát triển của khu vực
Hamburg Hafencity. Cá nhân mình cảm thấy choáng ngợp trước tổng thể khu vực này
hơn, đó là một cách tiếp cận rất khôn ngoan ở khía cạnh đô thị khi những KTS đã
đục khoét vào bên trong đường bờ sông để tăng chiều dài của nó lên gấp 6 lần,
kéo theo đó là việc xây dựng những khu nhà ở, đường xá, văn phòng, trường học,
bệnh viện – trên nền của một khu công nghiệp cũ đã quá hạn sử dụng (Hamburg
trước đây là một trung tâm công nghiệp). Việc tăng chiều dài đường mặt nước
(waterfront) đã biến cả khu vực thành một mỏ vàng cho đầu tư và kêu gọi vốn từ
khối vốn cá nhân. Nhờ vậy, cả khu vực này đã chuyển mình mạnh mẽ cả ở khía cạnh
kinh tế lẫn khía cạnh lịch sử khi mà nó vẫn giữ được bản sắc là một thành phố
hậu công nghiệp. Và rồi khi tất cả những đầu tư dài hạn đó đã đạt đến độ chín ở
khía cạnh phát triển đô thị thì người ta mới đặt lên trên nó, tọa lạc tại một
mũi vịnh – một lâu đài bằng kính, chính là khối nhà hát Elbphilharmonie được
thiết kế bởi Herzog & de Meuron, một trong những Văn phòng Kiến trúc tên
tuổi nhất Thế giới (Hai KTS này chính là những người đã thiết kế nên Điểu Sào
Quốc gia Thể dục trường tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008) và phải nói thêm là đồ
án đã được thực hiện trong một thời gian dài.
Tóm lại, không khó để chúng ta nhận thấy rằng Hamburg và Nhà hát nghìn tỷ
của nó là một ví dụ điển hình cho phương pháp phát triển và phát huy các nguồn
lực vốn có của một đô thị với những mục tiêu dài hạn và trung hạn cụ thể. Người
Đức đã thành công với cách làm bài bản đó. Mặc dù Elbphilharmonie cho đến hôm
nay, sau 2 năm đi vào hoạt động, vẫn còn hứng chịu không ít chỉ trích rằng nó
là một công trình quá đắt đỏ và tốn kém nhất trong lịch sử loài người, nhưng cả
Thế giới vẫn phải thừa nhận rằng nó là một công trình đẹp và sự thành công của
nó có tính chất liên ngành.
Đó là khía cạnh thứ Nhất đối với vai trò của Nhà hát trong một Đô thị.
Trở lại với bán đảo Thủ Thiêm tại TP.HCM. Ta thấy có những vấn đề trái
ngược: đầu tư dài hạn chưa có, chưa được lập kế hoạch, có một vài kế hoạch được
lập ra trong quá khứ nhưng thực tế đã chứng minh rằng chúng không làm việc được
(bởi vì nếu nó là kế hoạch tốt thì nó đã xảy ra rồi). Theo nhiều nguồn tin
chính thống, Cấp quản lý thậm chí yếu kém tới mức đã làm mất bản đồ quy hoạch?!
Thêm vào đó, những nhức nhối về giải phóng mặt bằng và những sai phạm rõ ràng
từ Sở, Ban, Ngành đã bộc lộ và chính thức trở thành khủng hoảng về sở hữu đất
trong nhiều năm qua. Cho nên không khó để nhận ra rằng việc phê duyệt quyết
định xây dựng Nhà hát Thủ Thiêm đã một lần nữa thể hiện sai lầm một cách cố hữu
của cấp quản lý. Có một số nhận định cho rằng TP muốn xây dựng một công trình
công cộng tại đây, kéo theo nhân sự công cộng đổ vào khu vực thì sẽ làm chìm đi
những lùm xùm về sở hữu đất (vốn dĩ đã kéo dài hàng chục năm) với các hộ dân
ngụ cư. Thành thực mà nói, nhận định đó là hoàn toàn có cơ sở bởi việc công
cộng hóa các khu vực đất tranh chấp là phương pháp được coi là khá phổ biến của
nhà cầm quyền đương thời trong khủng hoảng đất đai. Bởi điều này sẽ dần đẩy một
cộng đồng yếu thế đang chịu oan ức vào thế bị cô lập. Tất nhiên, nhìn theo
hướng nhân đạo hơn, có thể giới chức TP.HCM chưa hẳn đã có dã tâm như vậy, có
thể họ cũng có những thiên hướng tốt đẹp về Văn hóa Nghệ thuật thì sao? Ngay cả
trong tình huống bớt tồi tệ đó, kế hoạch mà họ đang phê duyệt và triển khai vẫn
hoàn toàn sai cả ở yếu tố tầm nhìn đô thị lẫn yếu tố kinh tế. Như đã nói ở
trên, đó có thể coi là những sai lầm căn bản có tính hệ thống. Nếu bỏ qua các
vấn đề về dã tâm vốn được báo chí chính thống một mực phủ nhận, thì đây là vấn
đề về trí tuệ và năng lực.
Rời xa khỏi khía cạnh thứ Nhất, ta đi vào khía cạnh thứ Hai của một Nhà
hát, đó là tương tác văn hóa của nó đối với cộng đồng. Ở khía cạnh này, mình
xin lấy ví dụ về thành phố Berlin.
Berlin cũng có dân số cao đến 4 triệu người (gấp đôi Hamburg) nhưng họ
không xây Nhà hát nghìn tỷ mới tại đây, bởi các hệ thống đầu tư dài hạn chưa đạt
đến độ chín. Thay vào đó, họ tập trung nâng cấp, cải tạo, và làm mới các Nhà
hát cũ có giá trị lịch sử - điển hình như nhà hát Friedrichstad-Palast, nơi vẫn
diễn ra các buổi biểu diễn tầm cỡ thế giới với chuyên môn cao. Hoặc như Cung
thể thao Mercedes được sử dụng như không gian đa chức năng và có thể tổ chức
các buổi diễn nhạc, kịch rất lớn. Hồi đầu năm mình có đi xem hòa nhạc Game of
Thrones tại đây, khán phòng 12 nghìn chỗ ngồi không có lấy một chỗ trống. Ngoài
ra thành phố còn có một số lượng lớn các nhà hát vừa và nhỏ, nhà hát tư nhân,
các cụm rạp chiếu phim nghệ thuật, diễn kịch như cụm rạp Babylon… Thậm chí,
ngay sau nhà mình cũng có một Nhà hát nhỏ được tạo ra rồi hoạt động trong một
khu tập thể cũ, nó là nơi để các nghệ sĩ trẻ có chỗ tập luyện và giới thiệu
nghệ thuật của họ với một số lượng khán giả nhất định. Nói cách khác, Nhà hát
nghìn tỷ của Berlin cũng có tồn tại nhưng thay vì ở một chỗ thì nó ở khắp mọi
nơi, dưới nhiều hình thức và quy cách hoạt động. Người ta tự tạo ra các không
gian tương tác nghệ thuật phù hợp với khả năng, họ thể hiện cam kết theo đuổi
lâu dài rồi nhận được không ít sự giúp đỡ và động viên từ cộng đồng cũng như
chính quyền sở tại. Nói cách khác, họ đưa Nhà hát đến với từng góc phố; đưa các
bài hát, vở kịch đến gần với người xem và nhờ đó những nhà hát nhỏ này sinh
sôi, phát triển trong một môi trường bền vững, lành mạnh. Và sẽ thật nực cười
khi chúng ta nói rằng các hoạt động nghiên cứu và phát triển âm nhạc (từ tự do
cho đến hàn lâm) ở Berlin yếu thế hơn so với Hamburg. Trái lại, chính Berlin
mới được coi là trung tâm âm nhạc, vũ kịch của cả châu Âu nhờ môi trường đầu tư
cởi mở cũng như nét duyên dáng và sự sôi động của nó – điều đã hấp dẫn tất cả
các nghệ sĩ chân chính trên toàn Thế giới. Người nghệ sĩ, họ không cần một nhà
hát lớn, thay vào đó, họ cần có khán giả và trên hết, họ cần được phát triển
thứ Nghệ thuật của chính mình.
Điều đó đã chỉ ra rằng, việc có hay không có một nhà hát nghìn tỷ không hề
quyết định môi trường thực hành Văn hóa, Nghệ thuật tại một thành phố. Môi
trường thực hành Văn - Nghệ được định hướng và dẫn dắt bởi các cơ chế và chính
sách. Văn hóa - Nghệ thuật luôn đòi hỏi một cơ chế mở, tự do và khuyến khích
tất cả các thành phần của nó hoạt động hết khả năng. Giới chức TP.HCM thì lại
cho rằng chỉ cần xây Nhà hát nghìn tỷ là sẽ có nền Văn hóa - Nghệ thuật phát
triển!? Suy nghĩ đó còn thua cả suy nghĩ của một đứa trẻ. Có xây vài ba cái Nhà
hát nghìn tỷ mà vẫn còn tồn tại Sở Văn Hóa TP với chất lượng con người như hiện
nay thì xây xong cũng chỉ để tổ chức dăm ba tiệc cưới, chục cái Đại hội Công
nhân Viên chức là cùng. Và đến khi các nhà hát không làm việc hiệu quả như mong
đợi, chắc chắn họ sẽ quay sang đổ lỗi cho một thứ mơ hồ được gọi là “cơ chế” -
đứa con hoang chính họ đẻ ra nhưng chẳng bao giờ thừa nhận.
Trở lại năm 2015, đồ án Nhà hát nổi Holzmarkt trên sông Spree tại Berlin
của cá nhân mình thiết kế được giải thưởng và lọt vào vòng phê duyệt của Thành
phố. Tại thời điểm đó, mình nhận ra rằng ngay cả với một đồ án nhỏ với nguồn
vốn xã hội cũng thu hút được sự quan tâm của rất đông đảo các giới chức. Người
ta thực hiện những cuộc họp rất nghiêm túc tại trung tâm hội nghị MesSe Berlin
với sự tham gia của những đạo diễn chỉ đạo thiết kế sân khấu hàng đầu. Qua đó
ta thấy rằng Môi trường nghệ thuật lành mạnh nó thúc đẩy những người trẻ nhiều
đến thế nào. Sự thúc đẩy đó là vô giá.
Trái lại, không cần lấy ví dụ xa xôi, hãy nhìn vào Bảo Tàng Hà Nội với chi
phí xây dựng 6 nghìn tỷ đồng. Cho đến tận ngày hôm nay, sau 7 năm đi vào hoạt
động thì nó tổ chức được bao nhiêu triển lãm Nghệ thuật? Bao nhiêu sự kiện Nghệ
thuật? Đơn vị vận hành lưu trữ thêm được bao nhiêu hiện vật? Bộ sưu tập các tác
phẩm được tăng lên bao nhiêu? Bao nhiêu dự án bảo tồn được thành lập? Bao nhiêu
nghệ sĩ trẻ nhận được tài trợ để phát triển sự nghiệp? Kết nối được với bao
nhiêu cơ sở nghệ thuật trên toàn Thế giới? Đào tạo ra được bao nhiêu curator
(nhà định hướng Nghệ thuật)? Tổ chức được bao nhiêu cuộc đấu giá tác phẩm? Bán
được bao nhiêu tác phẩm? Khả năng tự tạo ra của cải và khả năng sinh lãi là bao
nhiêu? … Chẳng ngại ngần, ta khẳng định tất cả các thông số đó đều tiệm cận với
số “0”. Thứ duy nhất không gần với số “0”, thẳng thắn mà nói chính là chi phí
vận hành và bảo trì công trình, chi phí này chắc chắn không ít hơn hơn 10 chữ
số một năm. Mình vẫn còn nhớ năm 2010 khi đi thực tập cho Văn phòng GMP của
CHLB Đức (chính là văn phòng Kiến trúc đã thiết kế ra cái nhà bảo tàng này và
cả Trung tâm Hội nghị Quốc gia), sếp tổng của VP - thầy Gerkan có dẫn cả nhóm
sinh viên lâu nhâu bọn mình đi thăm quan TT Hội nghị và Bảo tàng Hà Nội. Lúc đi
qua TT Hội nghị thầy tỏ ra đau lòng khi nhìn thấy người ta đang trang hoàng
phần tiền sảnh một cách hơi lòe loẹt để tổ chức một Đại hội Công nhân viên
chức. Lúc sau, khi cả nhóm đi sang nhà bảo tàng, bọn mình thấy thầy dường như
vui hơn vì công trình lúc đó còn đang thi công dở dang chưa đi vào hoạt động.
Ngày nay nếu có dịp gặp lại, mình có lẽ không dám nói ra sự thật với thầy rằng,
chí ít thì cái TT Hội nghị vào dịp vắng hội họp thì nó còn tổ chức được đám
cưới cho con cái các sếp, còn bên nhà bảo tàng thì người ta chả làm được gì. Và
ta phải nhìn vào thực tế đó để rút ra các vấn đề về công tác vận hành. Công
trình Văn hóa, dù đẹp dù sang đến mấy mà thiếu đi sự sống bên trong lòng nó thì
cũng không ổn và tuyệt nhiên không phải cứ xây cho được cái bảo tàng to đẹp,
hoành tráng thì tự thân số lượng nghệ sĩ sẽ nhiều lên, nhiều mẫu vật hơn, có
nhiều tranh hơn, nhiều tác phẩm điêu khắc hơn… Tất cả những điều đó sẽ chẳng
bao giờ xảy ra khi chúng ta không tạo ra một cơ chế và môi trường cởi mở cho
hoạt động nghệ thuật chân chính.
Có lần mình mua TV mới, lúc đầu cháu mình rất thích vì TV mới to, màn hình
tinh thể lỏng và có khả năng chạy video độ phân giải cao, tuy nhiên một thời
gian sau cháu chẳng màng đến nó nữa bởi chiếc TV mới không được cắm cáp truyền
hình với các kênh mà cháu bé yêu thích. Cháu mình quay trở lại xem chiếc TV nhỏ
với những chương trình thiếu nhi phù hợp với cháu. Một em bé 3 tuổi chẳng mất
mấy thời gian để nhận ra rằng vấn đề không nằm ở kích cỡ.
Như vậy, qua hai khía cạnh hẹp của vai trò của Nhà hát đối với một Thành
phố. Chúng ta nhận ra rằng, vào lúc này việc đầu tư nghìn tỷ để xây Nhà hát
nghìn tỷ ở Thủ Thiêm là chưa phù hợp. Thay vào đó, chúng ta nên đầu tư nghìn tỷ
để thúc đẩy hoạt động Văn hóa - Nghệ thuật một cách bài bản, tạo ra môi trường
cởi mở và thân thiện cho người nghệ sĩ (vốn luôn tự nhận mình là thấp cổ bé
họng). Hãy đầu tư nghìn tỷ để tạo ra những người Nghệ sĩ chân chính và chính họ
sẽ tạo ra Nghệ thuật chân chính và rồi tự khắc sẽ có Nhà hát hay Bảo tàng nghìn
tỷ. Hãy đầu tư để có những con người dám cất lên tiếng nói, tiếng hát, tiếng
đàn của chính mình, dám nhảy những điệu nhảy của chính mình. Xây Nhà hát nghìn
tỷ để làm gì khi những “nghệ sĩ” của chúng ta vẫn im re trước những bất công,
sai trái, vẫn co ro cúm rúm, bợ đỡ cường quyền? Xây Nhà hát nghìn tỷ làm gì khi
tất cả những thứ “nghệ thuật” được phê duyệt chỉ là thứ nghệ thuật nửa vời,
được tạo ra bởi những người tự xưng là “nghệ sĩ” - đang dò dẫm trong đêm tối và
phó mặc cho sự may rủi sẽ đưa mình đến với cái nơi mà nơi đó vốn dĩ chỉ dành
cho những kẻ can đảm và có đức tin?
Để kết lại xin trích dẫn lời của William Ralph Inge:
“Nhà Hát? Hẳn nhiên, nó là phản chiếu của cuộc đời và có lẽ chúng ta nên
cải thiện cuộc đời của chúng ta trước khi nghĩ đến việc chúng ta có thể cải
thiện bất cứ nhà hát nào hay không”.
Nhà hát có thể định giá một cách cụ thể
nhưng môi trường Văn hóa - Nghệ thuật thì có thể là vô giá.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire