Lê Hữu Khóa
(Tác giả là giáo
sư, tiến sĩ nhân loại học, xã hội học ở Pháp; Giám đốc Chương trình đào tạo
Master châu Á, phụ trách chương trình hợp tác với Việt Nam; chuyên gia tại
UNESCO… )
Tuệ giác của công bằng.
Mấy
việc này có ra kêu Quốc hội thì cũng không đúng thẩm quyền, họ cũng trả về cho
cấp cơ sở giải quyết theo đúng trình tự, kêu gào làm gì cho phí công, phí
sức...
Bạn
ơi, tôi “điếng hồn” vì câu này của
bạn, thật lạ là bạn sống mỗi ngày ngay trên đất nước này, mà bạn không biết là dân oan họ đã thưa kiện mọi nơi, họ đã
đi “cùng trời cuối đất” để “kêu oan”; mọi cơ quan có thẩm quyền đã
thông đồng với nhau là không xử lý nỗi oan của họ bằng công lý, mà nhắm mắt làm
ngơ để họ tiếp tục sống trong “màn trời
chiếu đất”, sáng chiều “đầu đường xó
chợ”. Họ kêu gào rồi lang thang từ hành pháp tới tư pháp, họ thét gọi các
lãnh đạo ĐCSVN phải cứu họ, nhưng“tứ bề
im ngặt” nên họ phải tới quốc hội chứ, vì tại đây thì họ tin là có thể gặp
để gọi được các đại biểu do họ bầu ra để bảo vệ họ mà! Nhưng buồn thay“nồi nào úp vung nấy”,họ chỉ gặp các đại
biểu mà tuyệt đại đa số là đảng viên lấy “kịch
trường” Quốc hội để diễn “hài kịch” là
cúi đầu-cong lưng-bấm nút, để bật đèn
xanh cho các âm mưu của bạo quyền lãnh đạo ở cấp bộ chịnh trị, mà bạn biết rất
rõ. Nhưng “kịch trường” Quốc hội của
các “hài kịch” lại chính là “bi kịch”
của Việt tộc, trong Quốc hội có một lực lượng đại biểu “hao tiền tốn của” cho thuế dân, lại âm mưu bằng thỏa hiệp âm binh
với độc đảng: xảo nghiệp trong điếm
trường!
Tôi
là Việt kiều, tôi đề nghị bạn làm một “kiểm
chứng thực địa” (rất dễ) là ra đường vào dịp Tết gần nơi bạn đang cư trú để
nhìn-và-thấy có
hàng trăm dân oan vẫn ra Hà Nội, dù biết các cơ quan lãnh đạo đã đóng cửa nghỉ
Tết! Họ nằm lăn lóc trên đường Ngô Thì Nhậm, với khí trời lạnh mùa đông miền
Bắc. Tại sao vậy? Tại vì họ không còn đất, còn nhà, họ mất hết, họ tới thủ đô
để kêu oan, để đòi công lý, mà lãnh đạo chính quyền phải trả lại công lý cho
họ, đừng lẻo miệng là “đầy tớ của
dân” nữa! Lãnh đạo đừng lẻo lưỡi “phục vụ dân”, hãy thật sự phục vụ nhân dân, bằng cách chống
bất công, chống bạo quyền, hãy bảo vệ dân bằng tuệ giác của công bằng.
Trí tuệ của lãnh đạo bắt đầu bằng trực diện để trực quan: các cơ quan có những toà nhà đắt tiền, rộng
lớn, cũng từ tiền thuế của dân mà ra; chính các cơ quan đó, từ địa điểm của các
hội đoàn tới các địa danh của của chính quyền, thì tất cả cửa nẻo đóng im ỉm
ngay cả ngày hành chính bình thường, nơi mà chung quanh dân oan đứng, ngồi, nằm la liệt, họ đang đi ăn xin công lý đấy! Họ trực
diện với một chính quyền vô
phép trước công pháp đấy! Vì họ có kinh nghiệm với một chính quyền đi
bắt cóc các nhà vận động dân chủ, tuyên bố xử họ công khai nhưng chặn công dân
đi dự ngay trước cổng tòa, bỏ tù các nhà vận động dân chủ nhưng khi thả họ ra
thì không có chứng thư giam giữ và phóng thích, cùng lúc chối leo lẻo trước
quốc tế là Việt Nam: không có tù nhân lương tâm. Một chính quyền bắt cóc dân - xử đóng cửa tòa - nhốt bừa bãi
- thả thô tục, đó là một chính quyền: xảo tri trong nhục lộ.
Tôi
nhớ hai câu của Nietzsche, đứa con tin yêu của triết học, suốt đời nổi loạn
trong triết học để triết học phải bỏ đi những “thói quen, tật thường” như phải bỏ đi chính là các “thói hư, tất xấu” có ngay trong cấu
trúc tư tưởng của mỗi triết gia, chỉ ra cho ta hai bài học:
● Bài học thứ nhất: “Sự thật rất xấu, con người có một “nghệ thuật” gạt sự thật để sự thật
đừng giết con người”, cụ thể có rất nhiều người sợ sự thật, vì khi họ đi
tìm sự thực, khi gặp sự thực, rồi đào sâu sự thực thì họ sẽ phải đối mặt với bạo quyền
lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham
tiền như hoàn cảnh nước Việt hiện nay.
●
Bài
học thứ nhì: “Nếu bạn nhìn vực thẳm quá
lâu, thì chính vực thẳm sẽ vào sâu trong bạn để nhìn
bạn”, đây là hậu
quả của câu thứ nhất, đối với những ai sống quá lâu trong vực thẳm, bị cầm tù
trong vực thẳm mà không thấy vực thẳm đang vùi, đang lấp, đang chôn, trước tiên
là con mắt của mình, sau đó là thể xác của chính mình. Vì, vực thẳm vừa sâu lại
vừa hẹp, cái tối tăm của nó làm ta bị lòa mắt; nên bọn âm binh sống trong vực
thẳm luôn có ý đồ làm cho chúng ta lòa mắt vì tối, âm binh thì sống nhờ bóng
tối nên chúng thấy ta, mà chưa chắc ta thấy chúng, bạn à!
Nói triết rồi nhắc tới thơ, mà một trong các ngôi sao sáng của nhân loại trong thi ca chúng ta có Baudelaire, giữa những bài thơ, là tâm trạng bi quan của thi sĩ trước nhân tình thế thái, ông tâm sự với chúng ta ít nhất hai chuyện (hai chuyện nhưng thật ra là hai bài học thật “khiếp hồn” cho kiếp người):
● Bài học thứ nhất:” Đừng tìm trái tim tôi ,các dã thú đã ăn nó rồi!”, đây không phải là chuyện thơ để “thơ thẩn” bạn à, đây chính là câu chuyện “cận hồn, sát vía” của Việt tộc hiện nay. Vì chúng ta đang sống với các con dã thú: khi chúng ta cúi đầu trước bạo quyền tạo ra bao bất công làm chúng ta mất luôn cả nhân phẩm; khi chúng ta khoanh tay trước tà quyền tham quan sinh ra bao khốn cùng làm chúng ta mất luôn cả nhân tri, khi chúng ta quỳ gối trước ma quyền tham tiền tạo ra bao điều bất lương làm chúng ta mất luôn cả nhân tính; tức là chúng ta đã bị dã thú ăn thịt rồi!
● Bài học thứ nhì:”Cuộc sống rồi sẽ dứt nhưng hối tiếc thì không”. Chúng ta đừng để hối tiếc trước khi chúng ta rời cõi đời này, mà khi chúng ta còn sống thì chúng ta đã nhắm mắt trước bất công của bạo quyền, đã cong lưng trước bất chính của tà quyền, trước bất nhân của ma quyền.
Nói triết, ghé thơ thi phải thăm sử,
nhất là sử của Việt tộc, bạn có nhớ chuyện của Trần Thái Tông không? Một vị vua
đau khổ nhất của Việt sử, vì bị thái sư Trần Thủ Độ, ép phải lấy chị dâu của
mình trong bạo luật nội hôn của nhà Trần, nhưng Trần Thái Tông lại là một minh
quân hàng đầu mà Việt tộc rất tự hào, sáng suốt trong tư duy để tỉnh táo trong
lý luận. Ngài là bắc đẩu của nhà Trần vì đã chứng minh được Việt tộc, không những là một dũng tộc can đảm đối đầu với quân Nguyên
mông, mà còn là một minh tộc biết
thắng trận bằng mưu lược của trí cao, đã tống cổ bọn cướp nước này ra khỏi bờ
cõi Việt. Ngài biết đào sâu để khơi rộng đạo vị Phật giáo bằng chính sự tinh
cần của mình, cõi lương tri của ngài có giới
luật, có thiền định, có trí tuệ, mà tôi chỉ mong các lãnh đạo
hiện nay của ĐCSVN có được một phần rất nhỏ của ngài, một phần rất nhỏ của rừng đầy hương:
“…Hương này trồng từ rừng giới luật
Tưới bằng nước thiền định,
Chặt trong vườn trí tuệ
Đẽo bằng đạo giải thoát…”
Trong
đau khổ, trong cuộc sống đầy thử thách, ngập thăng trầm, ngài giúp con dân Việt
tộc có đời sống tâm linh vững để có tỉnh táo bền bỉ, để có sáng suốt cao rộng,
không bị rơi vào bi kịch sống say chết
mộng, tức là sống mà không thật sự được sống, và say rồi trong mê loạn thì
cái chết tới lúc nào mà không biết. Bạn ơi, trong một xã hội Việt Nam hiện nay với
hàng trăm triệu đồng bào sống trong vô
cảm vì vô giác trước nỗi khổ của dân đen, trước nỗi oán của dân oan, triệu triệu người vô cảm này, sống say trong vô minh để chết mộng trong vô tri, từ ô nhiễm môi trường tới thực
phẩm bị đầu độc; cả một dân tộc đang đánh mất định hướng lương tri, tìm tới mê
tín dị đoan trong chuyện cầu vong, cầu hồn để rồi bị loạn tâm trong mê tín, mà
còn gọi đó là tâm linh! Riêng bạn, mỗi lần bạn bị lạc lõng giữa vô cảm, trong vô giác, rơi sâu vào mê lộ của vô
minh, chìm xuống đáy của vô tri,
bạn hãy tự đánh thức mình và nhớ về một đấng minh vương-minh sư, thật
sự là minh chủ của lương tri, đó là
Trần Thái Tông bằng hình ảnh của một con người thật tỉnh thức qua ngữ pháp của
chính ngài : Đừng ôm xác chết nữa…
(để) Ngẩng đầu lên thiên chân! Cõi
lương tri của Trần Thái Tông không lý thuyết, không trừu tượng, nó mang những
động thái thường nhật cụ thể, nhưng bản lĩnh lương tri của nó thật cao, ngài có
bài kệ Dâng hương thật hay bạn ạ:
Ngạt ngào trầm hương rừng Chính Định
Chiên Đàn vườn Tuệ đã vun trồng
Giới Đạo đẽo gọt lên hình núi
Đốt lại lò Tâm để hiến dâng.
Bạn
ơi! Chúng ta hãy giúp nhau “Đốt lại lò
Tâm để hiến dâng” nhé bạn! Để đừng quên
dân oan cũng là dân Việt. Người
bạn thân quý của tôi ơi! Mỗi lần có những nỗi buồn lo ập đến trong tâm hồn bạn,
mang theo bao độc chất của tà quyền
đang biến thành ám chất trong cõi
lương tri của bạn, với loại câu hỏi như sau, làm hỗn loạn tư duy của bạn:
● Tại sao Việt tộc ra nông nỗi này? Người Việt hiện nay chọn vô cảm làm phản xạ trước các nỗi khổ niềm đau với chính đồng bào
mình.
● Tại sao Việt tộc lại đánh để
mất đời sống tâm linh của nhân tâm như vậy? rồi gọi tên mê tín, dị đoan là
tâm linh, biến cõi tín ngưỡng, từ chùa chiền tới lăng miếu, thành nơi buôn thần bán thánh có vụ lợi, để phục
vụ cho tư lợi.
● Tại sao Việt tộc lại cúi đầu,
khoanh tay, quỳ gối trước bạo quyền độc tài, trước tà quyền tham quan, trước ma
quyền buôn người bán tình? Mà không vận dụng chiều sâu tâm linh của tổ tiên,
để biến nó thành chiều cao cho chính nhân phẩm của mình; là đứng dậy, là thẳng
lưng, là ngẩng đầu, để gạt đi cái bạo,
xóa đi cái tà, vất đi cái ma, để lấy lại cái người (vì cõi người).
Ban có thể trả lời câu hỏi này qua ca
khúc Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ
Phạm Duy:“Việt Nam, Việt Nam tên gọi là người… Việt Nam đem vào sông núi
tự do, công bằng, bác ái muôn đời”: nên chỉ có thể là nạn nhân của bao tàn
phá chiến tranh, bị đổ nát sâu đậm trong tâm hồn như Việt tộc mới thấy hết giá
trị của tự do, công bằng, bác ái. Vì
ba định đề này là ba tiền đề cho nhân
quyền, một nhân quyền bao la, đó là quyền yêu người để yêu mình, yêu đồng
loại để yêu đồng bào… yêu muôn đời. “Việt
Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau, Việt Nam đi xây đắp yên
vui dài lâu”: Việt tộc không đòi
xương máu, quyết tâm ra khỏi vòng điêu lụy của xương máu, để kêu to, để kêu xa, để kêu sâu bằng tiếng gọi thương nhau; trong cõi thương
nhau, luôn mang hai giá trị của hạnh phúc mà cũng là hai giá trị của tâm
linh yên (và) vui, dài (và) lâu.”Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng
soi toàn thế giới, Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời”: Việt tộc sẽ đi
trên con đường tương lai không bằng sự vô cảm đã bị độc chất của tà quyền ám
chụp bao lâu nay, mà chúng ta sẽ đi trên con đường tương lai bằng ý nguyện của lửa thiêng để biến nó thành ý
lực đủ sức soi toàn thế giới; chính
sung lực của ý nguyện và hùng lực của ý lực trao tặng cho chúng ta bản lĩnh
biết nguyện tranh đấu cho đời. Và, “Việt Nam, Việt Nam… tình yêu đây là khí
giới, tình thương đem về muôn nơi, Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người”:
có bản lĩnh lấy tình yêu làm khí giới
vì nhân phẩm Việt làm cao nhân ái; có
tầm vóc trao tặng tình thương cho muôn nơi vì nhân tâm Việt làm rộng nhân từ,
có nội công với tiếng nói đi xây tình
người vì nhân đạo Việt đi xa vào
nhân bản.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire