24/01/2022

NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG DỊCH VÀ GIỚI THIỆU BÀI BÁO TRÊN NEW YORK TIMES

VỀ SỰ RA ĐI CỦA THẦY THÍCH NHẤT HẠNH, THIỀN SƯ VÀ NHÀ CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ, QUA ĐỜI Ở TUỔI 95

Thầy TNH và Mục sư M.L. King họp báo ở Chicago năm 1966

Là một nhà sư có ảnh hưởng toàn cầu và là đồng minh của Martin Luther King, ông đã chủ trương “Phật giáo dấn thân”, áp dụng các nguyên tắc của nó để thúc đẩy hòa bình.

Thích Nhất Hạnh, một nhà sư Phật giáo Việt Nam, một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, truyền bá thông điệp về chánh niệm, từ bi và bất bạo động, đã qua đời hôm thứ Bảy tại nhà riêng ở chùa Từ Hiếu, Huế, Việt Nam. Ông thọ 95 tuổi.


Cái chết được Làng Mai, tổ chức tự viện của Ông thông báo. Ông bị xuất huyết não nặng vào năm 2014 khiến không thể nói được, mặc dù có thể giao tiếp bằng cử chỉ.

Một tác giả, nhà thơ, nhà giáo và nhà hoạt động vì hòa bình, Thích Nhất Hạnh đã bị lưu đày khỏi Việt Nam sau khi phản đối chiến tranh vào những năm 1960 và trở thành một tiếng nói hàng đầu trong phong trào mà ông gọi là “Phật giáo dấn thân”, việc áp dụng các nguyên tắc Phật giáo vào cải cách chính trị và xã hội .

Đi du hành rộng rãi trong các chuyến lưu diễn ở Hoa Kỳ và Châu Âu (ông thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp), Thích Nhất Hạnh là một người có ảnh hưởng lớn đối với các thực hành Phật giáo phương Tây, thúc giục việc nắm lấy chánh niệm, mà trang web của ông mô tả là "năng lượng của nhận thức và tỉnh thức ở thời điểm hiện tại”.

Trong cuốn sách “Bình yên là mỗi bước đi: Con đường chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày”, ông viết, “Nếu chúng ta không hoàn toàn là chính mình, thực sự trong giây phút hiện tại, chúng ta sẽ bỏ lỡ mọi thứ.”

Số người theo dõi ông ngày càng tăng khi ông thành lập hàng chục tu viện và trung tâm tu tập trên khắp thế giới. Làng Mai nguyên thủy, gần Bordeaux, miền tây nam nước Pháp, là tu viện lớn nhất trong số các tu viện của ông và nhận được sự viếng thăm của hàng ngàn người mỗi năm.

Thầy Thích Nhất Hạnh ở VN năm 2019

Năm 2018, ông trở về Huế, miền Trung Việt Nam, sống những ngày cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, nơi anh xuất gia khi còn là một thiếu niên.

Thích Nhất Hạnh bác bỏ ý kiến về cái chết. Ông viết trong cuốn sách “Không chết, không sợ hãi”. "Chúng không có thật."

Ông nói thêm: “Đức Phật dạy rằng không có sinh; không có cái chết; không có sắp tới; không có đi; không có giống nhau; không có gì khác biệt; không có cái tôi vĩnh viễn; không có sự hủy diệt. Chúng tôi chỉ nghĩ rằng có sự hiện hữu”.

Ông viết, sự hiểu biết đó có thể giải phóng mọi người khỏi nỗi sợ hãi và cho phép họ “tận hưởng cuộc sống và đánh giá cao cuộc sống theo một cách mới”.

Mối quan hệ của ông với Hoa Kỳ bắt đầu vào đầu những năm 1960, khi ông học tại Đại học Princeton và sau đó giảng dạy tại Cornell và Columbia. Ông có ảnh hưởng đến phong trào hòa bình của Mỹ, thúc giục Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King Jr. phản đối Chiến tranh Việt Nam.

Tiến sĩ King đã đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình năm 1967, nhưng giải thưởng này không được trao cho bất kỳ ai vào năm đó.

“Cá nhân tôi không biết có ai xứng đáng hơn vị sư hiền lành đến từ Việt Nam này,” Tiến sĩ King viết cho Viện Nobel ở Na Uy. “Những ý tưởng của ông ấy về hòa bình, nếu được áp dụng, sẽ xây dựng một tượng đài cho chủ nghĩa đại kết, cho tình anh em thế giới, cho nhân loại.”

Thích Nhất Hạnh tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo, sinh tại Huế vào ngày 11 tháng 10 năm 1926. Ông gia nhập một thiền viện năm 16 tuổi và theo học Phật pháp ở đó với tư cách là một sa di. Khi xuất gia năm 1949, ông lấy pháp danh là Thích Nhất Hạnh. Thích là một họ danh dự được sử dụng bởi các tăng ni Việt Nam. Đối với những người theo ông, ông được gọi là Thầy.

Vào đầu những năm 1960, ông thành lập Thanh niên phụng sự Xã hội, một tổ chức cứu trợ cơ sở ở miền Nam Việt Nam sau đó. Nó đã xây dựng lại những ngôi làng bị đánh bom, thiết lập trường học, thành lập trung tâm y tế và đoàn tụ các gia đình bị mất nhà cửa do chiến tranh.

Thích Nhất Hạnh bắt đầu viết và lên tiếng phản đối chiến tranh và vào năm 1964, đã xuất bản bài thơ “Lên án” trên một tuần báo Phật giáo.

Bất cứ ai đang nghe, hãy là nhân chứng của tôi:

Tôi không thể chấp nhận cuộc chiến này.

Tôi không bao giờ có thể, tôi sẽ không bao giờ.

Tôi phải nói điều này một nghìn lần trước khi tôi bị giết.

Tôi giống như con chim chết vì người bạn đời của nó,

rỉ máu từ chiếc mỏ gãy của nó và kêu lên:

“Hãy coi chừng! Quay lại và đối mặt với kẻ thù thực sự của bạn

- tham vọng, bạo lực hận thù và tham lam. "

Bài thơ khiến ông bị gán cho cái mác "nhà thơ phản chiến", và ông bị tố cáo là một nhà tuyên truyền ủng hộ Cộng sản.

Thích Nhất Hạnh đến cư trú tại Pháp khi chính quyền miền Nam Việt Nam từ chối cho phép ông trở về từ nước ngoài sau khi ký kết Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973.

Ông đã không thể trở về Việt Nam cho đến năm 2005, khi chính quyền Cộng sản cho phép ông giảng dạy, thực tập và đi du lịch khắp đất nước. Hoạt động chống chiến tranh của ông vẫn tiếp tục, và trong một cuộc nói chuyện tại Hà Nội năm 2008, ông nói rằng cuộc chiến tranh Iraq là kết quả của sự sợ hãi và hiểu lầm, trong đó bạo lực tự gây ra.

Ông nói: “Chúng tôi biết rất rõ rằng máy bay, súng và bom không thể xóa bỏ những nhận thức sai lầm. “Chỉ có lời nói yêu thương và sự lắng nghe từ bi mới có thể giúp con người sửa chữa những nhận thức sai lầm. Nhưng các nhà lãnh đạo của chúng tôi không được đào tạo theo kỷ luật đó, và họ chỉ dựa vào lực lượng vũ trang để loại bỏ chủ nghĩa khủng bố ”.

Vào năm 2013, trong nhiều chuyến thăm đến các trung tâm có tầm ảnh hưởng ở phương Tây, ông đã phát biểu tại trụ sở chính của Google ở Thung lũng Silicon, đưa thông điệp về sự chiêm nghiệm thầm lặng của mình lên hàng đầu trong thời đại kỹ thuật số năng lượng cao.


 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire