(Tầm Văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản ) (*)
Hà Sĩ Phu
1- Quan hệ giữa Tranh đấu, Nhân quyền và Văn hóa
Mọi
hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý
nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. “Quyền Con người” ngày nay đã trở thành
vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một
bước bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức
bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi “Quyền Con
người” một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần.
Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về “Quyền Con người”, con người có thể
nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan,
khoa học và sáng suốt hơn.
Đã
có nhiều cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp
cận sáng tỏ nhất cho nhận thức là tiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ
bầy đàn chuyển thành xã hội, Con người cũng chuyển từ cuộc sống Sinh
vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh hơn...
Càng văn minh, nội dung tính “Người” càng mở rộng, thì “Quyền Con người”
cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính VĂN
HÓA bấy nhiêu.
Với cách tiếp cận Tiến hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội dung Nhân quyền có thể và cần phải xếp thành ba bậc:
a) Quyền làm Người trước hết là QUYỀN ĐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, tức quyền được sống và tự do về thân thể. Tạm gọi là “NHÂN QUYỀN BẬC 1”.
b) Tiếp sau đó là QUYỀN ĐƯỢC “ẤM NO”, nói rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người.
Quyền
này tuy đã có tính VĂN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là
tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy, trong sự tương tác với tự nhiên và xã hội.). Tạm gọi là “NHÂN
QUYỀN BẬC 2”, phần nào tương đương với “quyền Kinh tế”.
c)
Cao nhất là những quyền của “Con người văn minh”, là những quyền mang
giá trị “tinh thần”, gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học,văn hóa, nghệ
thuật... liên quan đến các nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần,và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là “NHÂN QUYỀN BẬC 3” (hay QUYỀN TỰ DO-DÂN CHỦ). Đây là những quyền có tính VĂN HÓA cao.
(Tất
cả những khái niệm vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh
tế-xã hội, quyền chính trị, quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, vân vân, đều mang những nội
dung không thể tách biệt rành mạch, chỉ nên hiểu một cách linh động, qui
ước thôi.).
2- Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát triển VĂN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI
Ba bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản nếu chưa có nhân quyền bậc thấp thì chưa thể có nhân quyền bậc cao hơn, ví dụ chưa được sống và được ăn thì chưa thể nói đến quyền tự do ứng cử!
Chưa
có bậc thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát
triển không đều, nên cả ba cấp Văn hóa, ba cấp Nhân quyền, và do đó ba
cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở
đây, đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì
người kia, ở kia còn phải đòi quyền được làm việc và trả lương công bằng
(nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi cho
được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).
Trong bài “Đôi điều suy nghĩ của một công dân” trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm “Quan hệ dọc” và “Quan hệ ngang” trong sự tiến hóa xã hội. Một “Hình thái Kinh tế-Xã hội” tốt hay xấu cho thấy mối quan hệ dọc
của xã hội ấy trong dòng thời gian, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng
không phải mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng (hay bị chịu đựng)
mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Có sự không đồng đều hay sự lệch pha
văn minh giữa các quốc gia đương thời, thậm chí giữa các nhóm người
trong cùng một xã hội, gây nên áp bức bất công, đó là mối quan hệ ngang trong không gian địa cầu giữa những người đang sống. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ với nhau.
Thế
kỷ 18-19, con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh
trên khắp thế giới, khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa.
Trong “quan hệ dọc”, đây là sự tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong
“quan hệ ngang” nó tạo ra sự mất công bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ
thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hóa. Hình thành một
“giai cấp Vô sản” đông đảo, chẳng những bị bần cùng hóa mà bị đe dọa cả
sự sống còn. Được trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với những người
lao khổ khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng sản.
Từ
một mức sống thấp như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng
lên đòi Quyền Con người, thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và
Quyền được “ấm no”, tức là tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ hai
của thang Nhân quyền, ứng với tầm Văn hóa thấp, như trên đã trình bày.
(Có
thể họ có ước mơ xây dựng một cuộc sống Cộng sản rất cao sau này, nhưng
đấy lại là chuyện khác, chuyện ấy không thuộc phạm vi “tranh đấu” và
“đòi”. Ai ước mơ gì cứ việc ước mơ, nhưng không ai có thể đòi xã hội cái
sản phẩm mà chưa ở đâu có, lại càng không có quyền bắt người khác phải
ước mơ như mình.)
Nội dung phong trào Cộng sản gồm hai mặt:
*
Nhu cầu có tính chất khách quan đối với trào lưu “Cộng sản” là một cuộc
đòi “Quyền Con người tối thiểu” cho những người cùng khổ, tức là để
giải quyết mối “quan hệ ngang” về sự công bằng, trong đó có sự công bằng
giữa các dân tộc. Ở thời điểm lịch sử này phong trào Cộng sản đã có
những đóng góp xuất sắc.
* Còn việc muốn tạo ra
một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa
trong “quan hệ dọc”, thì đây là một hoang tưởng, phi khoa học. Hoang
tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia,
nhưng không được “lịch sử giao phó” nên lịch sử cũng không cung cấp
những tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại
còn gây ra những điều kỳ quái, mà bây giờ “lịch sử” đang đòi hỏi, đang
“giao nhiệm vụ” phải sửa chữa, xếp dọn lại tất cả những ngổn ngang bê
bối do ảo tưởng Cộng sản gây ra.
Tóm lại Cộng sản là một trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu,
lật đổ vì nhu cầu sinh tồn, nhưng còn ở tầm Văn hóa thấp, có lý và chỉ
có ích cho những xứ sở còn chậm phát triển. Giai đoạn”phá” thành công
nhưng giai đoạn “xây” thất bại nên kết quả cuối cùng là tác hại, gây khó
cho con đường phát triển.
Muốn hiểu điều
này, cần phân biệt giữa tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong
trào tranh đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Thật dễ hiểu, cuộc
tranh đấu cho những nhu cầu càng ở tầm sinh tồn sinh vật bao nhiêu thì
càng bức thiết, càng chính đáng bấy nhiêu, bởi không có nó thì xin đừng
đòi hỏi nhu cầu Văn hóa gì hết. Tuy nhiên, tính “chính nghĩa” không đồng
nghĩa với tầm cao Văn hóa. Nổi dậy chống bất công là chính đáng, nhưng
sau đó xây dựng thế nào là điều quan trọng hơn.
Điều thứ hai cần đề cập là quan hệ giữa Chiến thắng và Văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong
một trận cọ xát trưc tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại: càng có tầm
văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh.
Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng ngày. Cũng dễ hiểu vì ở
tầm văn hóa cao người ta bị hạn chế bởi rất nhiều điều không thể làm nên
tự mình trói tay mình, còn kẻ văn hóa thấp thì có thể giành chiến thắng
bằng mọi giá, có thể “phóng tay phát động quần chúng”… Chủ nghĩa Cộng
sản sẵn sàng hy sinh cả 100 triệu người thì chiến thắng nhất thời là dễ
hiểu.
Tính Văn hóa thấp của “Quốc tế” Cộng sản
được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu
vết đã in vào bài “Quốc tế ca” cũng đủ chứng minh:
Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng: “Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...”.
Những đối tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Xã hội phải bức
thiết dành hết tình cảm cho họ, phải bức thiết đem lại ngay quyền sống
cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà do họ “lãnh đạo” thì chỉ có thể là
một trào lưu ớ tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ, chắc chắn sẽ bị kẻ
gian lợi dụng, là điều quá hiển nhiên.
“Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình” là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là “phá sạch tan tành”, “quyết phen này sống chết mà thôi” để “tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt” như Chủ nghĩa đã chỉ rõ.
Cả đối tượng, mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp.
Bây
giờ nhiều người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hữu sản do tước
đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu những người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước
ta bây giờ cũng theo chủ nghĩa Mác hô hào nhau lặp lại một phong trào
tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là cách làm vô văn hóa chứ
gì nữa?
Nếu thấy cần làm lại những bài ca, thì
đáng lẽ phải làm lại bài “Quốc tế ca” này chứ không phải làm lại Quốc ca
như đã từng chủ trương! Sản phẩm nào của phần “Dân tộc” nói chung là
lành mạnh, chỉ những sản phẩm của phần “cách mạng” “giai cấp” mới là cái
cần được làm lại!
Nhưng nói vậy thôi. Cái đáng
phải làm lại nhất là “làm lại” toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa học của
nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi khi ấy người ta nghĩ rằng “đấu tranh đây là trận cuối cùng”.
Cốt sao lợi quyền về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được
rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không ai được đấu tranh lộn xộn
gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không phải “xét lại” nữa, ai chống lại
ngai vàng mà ta cướp đoạt thì quy thành phản động hết?
Liệu như thế có phải là “qua cầu rút ván” chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp?
Ý
tưởng lấy Búa và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu
biểu cho Thời đại cũng là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể
nào khác được, khi trào lưu “Tiến hóa” ấy lấy động lực ở người cùng khổ,
lấy điểm tựa ở sự bần cùng?
Ở một cuộc tranh
đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt (tương đối)
với cái tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống
“một mất một còn”.
Cuộc đấu tranh giai cấp “một
mất một còn” luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua
chiến thắng bằng cách hủy diệt mội trường, hủy diệt những công trình văn
hóa, và hủy diệt con người thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu
cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới
tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng ấy thật đáng ghê
sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và
7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.
Ở
tầm văn hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến
thắng của mình mà quên những giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao
thì sự tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữa những người đã ở tầm
cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám
chơi với những kẻ “nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng, còn nếu được thì lại được cả thế giới”
(!). Vì trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc,
nó chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống
chết mà thôi!), và sẵn sàng “phá sạch tan tành” tất cả những gì
cản đường. (Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người ấy nhưng không
quy lỗi cho họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu “Thiện” một cách chủ quan
và sẵn sàng làm mọi việc Ác mà không hề phải cắn rứt lương tâm. Họ sẽ
quyết định những điều hệ trọng một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng
của họ cũng như sinh mạng của cả dân tộc!
Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Stalin, Mao Trạch Đông... đã là “những nhà lợi dụng vĩ đại”, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!
Nhân đây, tôi xin “mở ngoặc” để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh.
Người ta thấy Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Quan điểm Cộng sản không cho phép
được buồn trong chiến tranh, trên đường ra trận phải vui như trẩy hội
(!). Bây giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương
nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng ta thành những kẻ phải
giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười tên cướp chết
nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta có nên kể lại
một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm “buồn” trong
đời? Tôi nghĩ chẳng những phải biết “buồn” mà suốt đời còn phải tự day
dứt. Càng phải day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những
người ưu tú. Càng có văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn
kém nên có nhiều cuộc chiến tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có
cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào cả.
3- Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản
Mỗi
Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp “Cách mạng”, với
bạo lực quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể cướp chính
quyền ngay tức khắc, nhưng văn hóa thì không cướp được; có xây dựng nổi
nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí
của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở
Văn hóa.
Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao?
3a- Chiến dịch xây dựng “Con người mới”
-
Suốt từ những năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một
chiến dịch dai dẳng và vất vả để cố xây dựng cho được hình mẫu “Con
người mới Xã hội Chủ nghĩa” (vì “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
những con người xã hội chủ nghĩa”).
Sách giáo
khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh,
báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đội Thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh... xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu không bám
víu vào những phẩm chất của “con người cũ truyền thống” như lòng yêu
nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn
nạn... thì “Con người mới” không còn có xương có thịt gì cả.
Cái
chất “mới” và “xã hội chủ nghĩa”, chất “giai cấp”, chất “Đảng”, chất
“thời đại” tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn,
nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do
ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi cái
đội ngũ hùng hậu của những “con người mới thật”, tệ hại, bằng xương bằng
thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng
loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất.
Học
dốt, bị cô giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng
dao dọa, bắt cô đứng lên bàn, tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy
tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng
băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo
vệ trên cầu Chương Dương Hà Nội cũng cướp của, giết người (mà có cấp
chính quyền còn định bao che), vân vân. Báo Công an thành phố Hồ Chí
Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn “người tốt
việc tốt “ rất phong phú ấy!
Xe khách đang chạy,
bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm “dùi cui” đàng
hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: “Hôm nay làm ăn
không được, mày “thí” cho chúng nó 5 đồng thôi!”. Rồi quay sang cười với
tôi: “Bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười!”. Anh phụ lái giở cái
giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai
có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhảy xuống để trình…! Xe lại chạy ngay
chẳng cần kiểm tra.
Giữa giờ, một anh bạn đến
thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang “giờ chính quyền” mà đi được à? Anh bạn tôi
cũng cười: “Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp
thời gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!”. Tôi bảo: “Sao bây
giờ cậu ăn nói “mất lập trường” thế?”. Anh lại bô bô: “Mình là “con
người cũ” nên cứ nói toẹt ra,chứ có phải “con người mới” đâu mà vòng
vo!”.
Trong một cục diện xã hội như thế, “con người mới” lý tưởng nào có thể sống được?
Có
thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được giải trong những năm gần đây
là tác phẩm “phản diện” mang tính phê phán, và những “điển hình” xây
dựng thành công là những điển hình về mặt trái của Con người và xã hội.
Người ta bảo: hãy quên chuyện “Con người mới” đi! hãy tìm lại những “Con
người cũ” tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa?
Rất
nhiều cuộc “Về nguồn” được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ “Về
nguồn”, đua xe đạp “Về nguồn”! Nào thi học sinh giỏi theo nghi thức thời
cổ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ!... Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi
người “Về nguồn” với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta đua nhau “Về
nguồn”, vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái “mới” nhăng nhít quá!
Có lời bình rằng: Trước đây bỏ “nguồn” để đi tìm Thiên đường Cộng sản,
nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn cù!
Còn
đang cố tìm một mẫu người “Trung với Đảng, Hiếu với Dân” thì đùng một
cái, một ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả
“Trung” cả “Hiếu”, làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này
chắc là “Trung”, nhưng mà bất “Hiếu”!
Truyện”Con người mới” kể cả ngày không hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế.
-
Nói đến Văn hóa Vô sản không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của
“Con người mới” Lôi Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy
triệu Hồng vệ binh vô học choai choai, dám đốt hết sách vở và lôi cả
những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên
đường phố, với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát những em sinh viên nhịn
đói để đòi dân chủ, với công đào tạo ra những tên lính Polpot ở tuổi
chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong
tay!...
Những hiện tượng “đại văn hóa” ấy mà
không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do Đế quốc Phong
kiến để lại? Hay chỉ có thể từ Văn hóa Vô sản, Văn hóa Đảng mà ra?
Không
phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi tiếng giáo điều với quan
điểm “Đế quốc Mỹ là con hổ giấy”, “gió Đông thổi bạt gió Tây”... lại
cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm “đổi mới” thực dụng nổi tiếng
“mèo trắng mèo đen” không quan trọng, miễn là “bắt được chuột”! Có thể
coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy (từ quá giáo điều sang
quá thực dụng) là quan hệ bù trừ, nhân quả, Nhưng nghĩ lại thì thấy hai
thái độ ấy cũng từ một gốc mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất duy
lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một
tầm văn hóa.
Khi trước giáo điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng “một mẹ sinh ra” cả!
Tóm
lại, khi mẫu người Phong kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo
những giá trị phổ quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh
công nghiệp và tin học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị.
Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ “con người mới xã hội chủ nghĩa”
giả định nào đấy, thì kết quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân
loại, nếu không ù lỳ như những bóng ma ảo tưởng cổ lỗ lỗi thời thì lại
thành những kẻ lừa đảo, lưu manh… rất hiện đại!
3b-Thiếu Văn hóa từ gốc
Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị và kinh tế.
Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh trị.
*
Nền Đạo đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung,
Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần, Kiệm, Liêm, Chính, đến Chính tâm tu
thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ,
hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất
biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo.
Duy có chữ QUÂN TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn.
Các nhà lý luận viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.
Nếu
những phạm trù NHÂN, THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung
chung, trừu tượng, thì phạm trù QUÂN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người
cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy
là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói anh “thiện”, anh “đạo đức” thì
anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành
động một cách”QUÂN TỬ”, hoặc là hành động một cách “TIỂU NHÂN”!
Những
bài học về QUÂN TỬ thiết thực lắm. QUÂN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và
THƯỢNG VÕ. Người ta thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm
gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc là anh học
người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em, hay
anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử?
Anh
có mọi quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì
anh có nhường một tờ báo, một diễn đàn cho những người khác trình bày
tiếng nói của họ hay không?
Anh nắm hết mọi sức
mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân
dân một Hội đồng thật sự để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh
lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn
“Hội đồng Nhân dân” cho nhất quán?
Anh có quyền
ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham
của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút
lót để dành cái nhà ấy cho một thầy giáo nghèo được không?
Người
Cộng sản thích chơi trò “Đạo đức” nhưng không dám chơi trò “Quân tử”,
thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay! Mặc dù trên đời cái gì cũng có thể
làm giả nhưng thực tế cho thấy Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì khó hơn nhiều.
Chủ nghĩa Phong kiến so với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời
thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có
một tinh thần QUÂN TỬ. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình,
nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUÂN TỬ thì con người phải đối
diện với chính lương tâm nó, khó trốn tránh hơn.
*
QUÂN TỬ thì phải CHÍNH DANH! Có người bảo “Chính danh” là thủ đoạn của
bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi thứ. Không đúng! Công bằng hay không
là ở chỗ “định danh”, định nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì
phải theo Danh mà làm! “Danh” một đàng “Thực” một nẻo thì đại loạn.
Trước
tình hình giáo dục lộn xộn bát nháo phải kêu gọi “Trường ra trường, lớp
ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò” là rất đúng, là phải “chính danh”!
Nhạc
trưởng cũng phải ra Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh
đứng ra giữa sân khấu mà bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không
thể chơi trò “giật dây” từ trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ “cánh
gà” sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì
chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy!
Anh
muốn chỉ huy cũng được (cứ cho là “được” đi), nhưng nếu chỉ “hiến định”
sự chỉ huy, mà không “luật hóa” sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ
huy? Mà phải là luật của Dân, chứ Đảng Cộng sản tự làm luật cho mình thì
đâu cũng hoàn đó. Nếu có “luật lãnh đạo” cho nghiêm minh (lãnh đạo kém,
gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút điều 4
trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng sản đã đi tù lâu rồi,
không tin cứ đưa ông Lê Đức Thọ ra Toà án của Nhân dân làm ví dụ thử
xem.
Trong dân mình có thói khôn vặt: nói thế mà
không phải thế! Nói “dzậy” mà không phải “dzậy” nên khi gặp chủ nghĩa
Mác Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích “nhân danh” nhưng không
thích CHÍNH DANH.
Trong cuốn Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: “Nguyên
tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội chủ nghĩa, tuy không dùng chữ
Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất
Chuyên chính Vô sản” (sđd.trang 15). Thế thì còn đâu là chính danh?
Có
lẽ do quá quen với “phương pháp luận” Mác xít nên người viết câu ấy
không cảm thấy tính TIỂU NHÂN trong đó. Thử hỏi tại sao lại thế: nếu
thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy,
nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không
có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau: Cứ Chuyên chính mà làm!
Thì chẳng Quân tử tí nào.
Điều nói dối ấy đã
làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy
nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị
quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách “vận dụng” của mình,
Nghị quyết “dzậy” mà không phải “dzậy”!
Người
Việt Nam muốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản Việt Nam muốn ra
người Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân
tử của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng những dòng sau đây: “Cần
phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện
Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh (liệu có dám ngang
nhiên như vậy không – HSP bổ sung). Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ
pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.”
*
QUÂN TỬ lại gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là
với lương tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nê vì Nghĩa lớn mà
bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri
Phương tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ
thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự sỉ càng
phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được. Ở ta,
người Cộng sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại
chuồn được!). Chuyện ấy địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng
điển hình. Phải chăng vì bài ca “lợi quyền” kia đã ngấm vào xương thịt?
Để riễu cái thói đạo đức giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức “cách mạng giả cầy” thế này: “Ông
không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ
của dân! Đứa nào ngăn không cho ông làm đầy tớ ông đánh bỏ mẹ.” (!)
Nhiều lúc tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên.
Tôi
nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi
không có ý định chỉ trích cá nhân ông, nhưng trường hợp của ông lại rất
điển hình. Trước đây ông nổi tiếng là người Mác xít gang thép, chẳng
những trong việc “đánh Đế quốc Mỹ và tay sai”, mà cả trong việc đánh
đồng bào mình, những nhà “công thương nghiệp tư bản tư doanh” (họ mang
tiếng là Tư sản nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ bây giờ). Hiện ông
cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê và định hướng Xã hội
chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với “ bọn tay sai
Nam Hàn” (cái “bọn” mà tôi còn nhớ trước đây chúng “giết bộ đội mình như
ngóe”), ngồi để ký kết những chương trình mà chắc chắn là phản lại cái
“chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của ông trước
đây (và nhận quà biếu tới 2 triệu đô-la). Tôi tự giải thích: có thể sự
quay ngoắt 180 độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm
bạn với tất cả mọi người.
Có thể thế lắm chứ! Nếu ông đổi mới như vậy thật thì quá tốt.
Nhưng,
người sám hối có những “triệu chứng lâm sàng” rất dễ nhận thấy. Biểu
hiện buộc phải có là “ngượng”, là “thẹn”, khiến cho những người khó tính
nhất cũng phải tha thứ.
Trong trường hợp này,
các “triệu chứng lâm sàng” đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người đã có
sai lầm tội lỗi chẳng những cứ thản nhiên cười nói, mà còn giữ tư thế
huấn thị, kiên trì chủ nghĩa, xử tội, “chém tay” quát nạt thiên hạ, thì
đây chỉ có thể là sự thiếu nhân cách đến vô liêm sỉ.
Điều
lạ nữa là tại sao tất cả những cán bộ xung quanh, trước hết là những
người hữu quan, lại không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ
cần là một người có nhân cách bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà
đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn xuôi
rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà đều nghĩ được
cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi ngưòi không hề
ngượng mồm?
Tôi không muốn lên án riêng ai, bởi
thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái thôi miên tập
thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị:” Hãy coi
chừng! không được trái ý Mác-Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác
Lê!” như sợ một bóng ma trong tiềm thức, một tay cầm gậy một tay cầm củ
cà rốt. Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an,
giống bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la,
giống những kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự
với chiếc xe con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là
một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ,
nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn!.
Cái gọi là “Lý tưởng Cộng sản”(mà chưa biết một thế kỷ nữa có thực hay
không) bây giờ chỉ còn là cái bình phong tự lừa dối lương tâm để làm
điều vô liêm sỉ, phá bỏ chiếc bình phong che mặt ấy chính là giúp người
ta trở về con người có nhân cách thật, đó là việc làm nhân ái, cứu
người! Bởi Dối trá là điều kiện cần và đủ cho cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản tồn tại và phá phách xã hội. Không có vị anh hùng dân tộc nào đủ sức chống lại con Quỷ dối trá ấy, trừ phi mỗi người công dân dám tự dấn thân một lần “Nói thật để cứu nước”!
Khi
học môn giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy
việc khép đùi nên tên là dây “thần kinh thẹn”. Bây giờ mỗi khi cùng nhau
tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt
mất dây “thần kinh thẹn” rồi. (Nhưng khi nghe những thằng bạn thao thao
bất tuyệt trên Ti-vi chúng tôi vẫn thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã
cho Con người biết thẹn, nếu không, ai giữ Văn hóa cho Người!
3c- Hiện tình “Văn học Cách mạng”
Tính
cách Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện
vào nhau nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa “đặc sắc” không bút nào tả
nổi. Nền Văn học “hiện thực xã hội chủ nghĩa” cố kéo dài hơi thở hào
hùng thời kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất lực và mất phương
hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không dám nhận
thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt
được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải
thưởng Văn học nào cũng “có chuyện”. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc
thi cho tử tế khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm
lại những từ ngữ cơ bản, viết lại những mệnh đề cơ bản: chẳng hạn “Cách
mạng” nghĩa là gì? “Phản động” nghĩa là gì? “Yêu Chủ nghĩa xã hội” có
phải là “yêu nước” không?, vân vân. Người chấm thi bị xé về hai chiều,
“con người chính trị “ phải đạo không còn chung sống nổi với “con người
văn học” trong một thể xác như ở giai đoạn trước, và mỗi “con người” ấy
trả lời những câu hỏi trên một cách trái ngược nhau.
Tất
cả những giá trị văn học chân chính lâu dài mà ta đã gặt hái được trong
mấy chục năm mà ta gọi là “Cách mạng” thực chất không có gì khác ngoài
giá trị Văn học yêu nước và nhân bản, còn cái chất “chuyên chính vô sản”
nếu có đóng góp thì chủ yếu là gây nên cái mặt trái của nền văn học đó.
Làm
sao có được “tác phẩm tương xứng với thời đại” khi nhà văn không thể
nhìn thẳng vào thời đại bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng
con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia
bên nào mắt thật bên nào mắt giả. Mắt vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn
hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi.
Trong
xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn huy Thiệp: Cái khốn nạn,
lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở,
giết nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm
điều đồi bại mà cứ như vô tình... Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như
mây khói. Phải chửi Trí thức! Phải chửi Đạo đức! Phải tốc ngược lịch sử
lên để nhìn rõ những chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo đức tuyệt vời
thiên phú của anh xui anh làm thế! Trong tấn tuồng đời, các vai đạo đức
đã bị những kẻ vô đạo giành đóng hết rồi!
Nhưng
anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước
đang đi lên không được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương
con người (tôi thích lời bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc
động nên phải viết lời vô cảm! Đọc những câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc
độc ác của anh tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng cái “vỏ” bút pháp của anh
đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là
cái cớ, lúc thực lúc hư.
Xã hội quái đản ấy cũng
buộc phải đẻ ra thơ “Bút Tre” để phản ánh nó, khi văn học chính thống
cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh
Phú mà ông Ngô Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một
cách chân thành,và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn
hóa Vĩnh Phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của
mình, để riễu cợt những giá trị mà công khai họ cứ phải “hoan hô”. Thơ
“Bút Tre thật” không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng không nhớ được, còn
“Bút Tre dân gian” thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy cái sức
sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút
Tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn
nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo
điều. Cười bò ra, rồi chảy nước mắt...vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa
tiện trích dẫn ở đây.
Còn những “cây đa cây đề” trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:
“Vị nghệ thuật” nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên!
(Xuân Sách, Chân dung Nhà văn)
Cái còn lại của những tài năng văn học tiêu biểu ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, những Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” (Xuân Sách, Chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo Bánh vẽ, Trừ đi, Ai, tôi
của nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa đời
sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những ngày cuối cùng của ông lại
cho thấy những nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do “về
nguồn” theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn
trả lời câu hỏi:
Cuộc đời hai nửa vì đâu?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, Thư gửi Xuân Sách)
Dòng
Văn học mới không thể không “phản tỉnh”, tự mình “lật tẩy” mình để tự
vượt qua, vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài
người văn minh.
*
Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một “giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại”
như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước đây đã lao theo con đường của
Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân
tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn
toàn khác với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây
ấn định.
Tình hình xã hội trong giai đoạn chuyển
đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì
phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một cách Văn hóa.
Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì tình
trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ Văn hóa không lành
mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có sự ổn
định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến bộ
nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả!.
H.S.P (1995)
-----------------------------------------
(*) Đây là một phần trong bài Chia tay Ý thức hệ, với đôi chút chỉnh lý.
ĐÔI LỜI VIẾT THÊM NĂM 2013
Thực
tiễn 18 năm qua chỉ cung cấp thêm những ví dụ ngày càng phong phú minh
chứng cho bài viết này. Dân chết trong tay công an, sự đàn áp kèm thêm
màu sắc “còn Đảng còn mình”, màu sắc côn đồ và thú tính tình dục… là
những biểu hiện sa đọa mới của một hệ thống quyền lực văn hóa thấp,
thiếu tự tin, thiếu quân tử, thiếu chính danh và liêm sỉ.
Sự đàn áp, vi phạm nhân quyền luôn song hành với sa đọa văn hóa như một cặp bài trùng, đương nhiên làm gia tăng sự đấu tranh của dân chúng, lập thành ba mặt tương sinh của thực tiễn xã hội, như được đặt ra ngay từ đầu bài viết.
Thực tiễn ấy củng cố thêm cho nhận thức sau đây:
-
Gia tăng đàn áp, vi phạm nhân quyền không phải là phương thuốc giữ ổn
định xã hội, mà ngược lại, có nâng cao văn hóa cai trị và thực sự tôn
trọng nhân quyền mới có một xã hội ổn định bền vững.
-
Trên cái nền thấp về văn hóa không thể có giá trị cao về nhân quyền.
Trào lưu Cộng sản mới chỉ thỏa mãn những nhu cầu ở tầm thấp về văn hóa
không thể làm nền cho sự phát triển cao về nhân quyền. Bởi đặt “đảng
quyền” trùm lên trên nhân quyền và dân quyền nên hệ thống Cộng sản quốc
tế tất yếu phải sụp đổ. Dẫu cố gắng cải tổ bao nhiêu ở trên ngọn cũng
không thể bù đắp cho những khuyết tật từ trong gốc rễ.
Một
nước chưa ra khỏi quỹ đạo Cộng sản (tức chế độ Phong kiến mới, Phong
kiến biến tướng) không thể có vị trí cao trong nền Nhân quyền của thế
giới văn minh. Còn nhớ trong chế độ Phong kiến cũ ngày trước cũng đã có
những chức “lý trưởng mua”, “chánh tổng mua”… nhưng đó chỉ là những tước
vị để trang trí cho những anh trọc phú mua danh mà thôi. Song, mua danh
cũng tốt, vì đã có chút danh cũng không thể dễ dàng làm những điều ô
danh như trước.
H. S. P.
Trong bài viết của mình ông Hà sĩ Phu đã tỏ ra nhầm lẫn những khái niệm cơ bản về Nhân quyền và Dân quyền trong lịch sử phát triển của loài người.Lấy việc đả kích học thuyết Cộng sản làm mục đích, ông Hà sĩ Phu đã rất gượng ép khi đưa ra những luận chứng và ví dụ để kết nối các vấn đề Nhân quyền, Xã hội và Lịch sử theo ý định đó.Điều này làm hỏng vấn đề bức thiết được đặt ra trong xã hội Việt Nam,tạo một sự nhầm lẫn, lẫn lộn tai hại về học thuật.Thiết nghĩ với nền tảng kiến thức mà mọi người đánh giá về ông Hà sĩ Phu, điều này không nên xảy ra.
RépondreSupprimerXã hội loài người phát triển từ bày đàn nguyên thủy đến xã hôi hiện đại ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn , nhiều thời kỳ.Sự tiến hóa đó được đánh dấu bằng sự thích ứng của CÁ NHÂN CON NGƯỜI VỚI CỘNG ĐỒNG và mức độ hòa đồng của nó nói lên sự VĂN MINH CỦA XÃ HỘI ấy.Nêu luận điểm "Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI."là cách nói khiên cưỡng mang tính chất mị dân không nằm trong mục đích tranh luận về học thuật.Ông Phu chắc không quên rằng:" Quyền con người là sản phẩm phát triển văn hoá xã hội của một kết cấu kinh tế xã hội nhất định và chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực” .Lấy ví dụ dưới thời Cộng hòa La Mã, tầng lớp quý tộc, bình dân, người nô lệ đều có những quyền Con Người khác nhau quy định từ những vị thế công dân khác nhau của họ.Có lẽ ông Phu cũng phải thừa nhận rằng điều đáng ngạc nhiên theo các học giả:những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ thời tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh, mà: “Luật lệ của chiến tranh thì lâu đời như bản thân chiến tranh và chiến tranh thì lâu đời như cuộc sống trên trái đất”. Tuy nhiên, ở trình độ phát triển của thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có những ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng ( với ý nghĩa là những quan điểm hoặc hệ thống quan điểm rõ ràng về một sự vật, hiện tượng nhất định), về quyền con người. Bởi vậy, quan điểm phù hợp hơn đó là, tư tưởng quyền con người được khởi thuỷ từ khi trái đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, mà một trong đó là nền văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000-1.500 trước CN). Chính trong nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm 1780 TCN) với câu tuyên bố nổi tiếng , theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để : “… ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”, …làm cho người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống trị nhân từ “cho mọi thần dân trên vương quốc.Cho đến thời điểm hiện nay, xét từ các góc độ tính toàn vẹn, nguyên bản, nội dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể coi là văn bản pháp luật thành văn đầu tiên của nhân loại nói đến quyền con người .
RépondreSupprimerNgoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con người còn sớm được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 -529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng các năm 272-231 ; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân(1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
RépondreSupprimerQuyền con người về thực chất được biểu hiện một cách thấm nhuần trong tư tưởng giáo lý các học thuyết tôn giáo.Trên thực tế, trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là những kinh điển của tôn giáo, bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi.
Xét về các học thuyết chính trị, pháp quyền, người ta ghi nhận rằng, vào thế kỷ thứ XXIV trước Công nguyên, vua Symer đã sử dụng khái niệm “tự do” để bảo vệ những bà goá, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ giàu có và thế lực trong xã hội; còn nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La mã là Arokhont Salon, ngay từ thế kỉ XI trước Công nguyên đã ban bố một đạo luật trong đó xác định một số khía cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối quan hệ với các quan lại nhà nước. Người ta cũng chỉ ghi nhận rằng, trong thời kỳ diễn ra sự tàn bạo khủng hiếp của chế độ nô lệ ở La Mã cổ đại : “Trước Crêông, Antigone đã nói đến quyền không vâng lời và trước những nô lệ, Spartacusse đã nói về quyền chống lại áp bức”.Cũng trong thời kỳ này, Protagoras (490-420 TCN) và các nhà triểu học thuộc trường phái nguỵ biện Sophism đã đưa ra quan niệm về sự bình đẳng và tự do giữa các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người đều là người tự do, không ai tự nhiên biến thành nô lệ cả “.
Còn rất nhiều dẫn chứng lịch sử và hiện đại để chứng minh rằng khái niệm quyền con người không hề lạ lẫm với con người và xã hôi đương đại ở Việt nam cũng như trên thế giới chả cần ông Hà sĩ Phu phải ra công thuyết giảng và dẫn chứng phản biện từ chủ nghĩa Cộng sản như một mặt đối lập cho sự ngu dốt chưa được khai sáng của dân trí.
Điều đáng ngạc nhiên ở đây là ông Hà sĩ Phu đã trình bày một cách hết sức lộn xộn, không khoa học cho 3 bậc nhân quyền mà ông khẳng định:Có thể và cần phải xếp như thế.Xin thưa ông Phu, và tôi xin cung cấp cho bạn đọc các quan điểm về học thuật đã được các nhà học giả công nhận:Cũng liên quan đến lịch sử phát triển của quyền con người, có thể chia các quyền thành ba “ thế hệ” (generations of human rights). Người đưa ra ý tưởng này (vào năm 1977) là một nhà luật học người Czech tên là Karel Vasak. Mặc dù lý luận của Vasak bắt nguồn và phản ánh lịch sử phát triển của tư tưởng và pháp luật về quyền con người ở Châu Âu, chúng vẫn có những ý nghĩa trong việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của quyền con người nói chung trên thế giới.
RépondreSupprimerThế hệ thứ nhất: Các quyền dân sự, chính trị
Theo Vasak, thế hệ quyền con người thứ nhất hướng vào hai vấn đề chính,đó là tự do và sự tham giao vào đời sống chính trị của các cá nhân. Thế hệ này bao gồm các quyền và tự do các nhân tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng. Các quyền này gắn liền với phạm trù tự do cá nhân- một phạm trù mà ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù quyền lực của Nhà nước. Mục đích của thế hệ quyền này về cơ bản là để hạn chế, ngăn chặn sự lạm quyền và sự tuỳ tiện xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân con người từ phía các quan chức và cơ quan nhà nước.
Thế hệ thứ hai: Các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá
Thế hệ quyền con người thứ hai hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Chúng được đề xướng và vận động mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu được quan tâm bởi một số chính phủ kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các quyền tiêu biểu thuộc về thế hệ quyền này bao gồm: quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở...
Thế hệ quyền con người thứ ba
Thế hệ này bao gồm các quyền tiêu biểu như quyền tự quyết dân tộc (right to sell- determination); quyền phát triển (right development); quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên (right to natural resources); quyền được sống trong hoà bình ( right to peace); quyền được sống trong môi trường trong lành (right to a healthy environment)…Danh mục các quyền thuộc thế hệ quyền này vẫn đang được bổ sung, trong đó những quyền được đề cập gần đây bao gồm: quyền được thông tin và các quyền về thông tin (right to communicate; communication rights); quyền được hưởng thụ các giá trị văn hoá (right to participation in cultural heritage)… Những văn kiện cơ bản phản ánh thế hệ quyền này bao gồm: Tuyên ngôn về bảo đảm độc lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa, 1960; hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, 1966 (Điều 1); Tuyên bố về quyền của các dân tộc được sống trong hoà bình, 1984; Tuyên bố về quyền phát triển, 1986…
Bài viết của tôi đã dài nhằm đóng góp một số ý kiến, ngõ hầu sửa chữa những ý kiến sai lầm về học thuật của ông Hà sĩ Phu.Với những ý kiến đóng góp một cách thực tâm với xã hội Việt Nam đương đại, nếu bác Chênh cho phép, theo tôi:Cần xây dựng một xã hội DÂN QUYỀN tại Việt Nam là nhiệm vụ khẩn thiết và cấp bách rất mong được trình bày.