Vũ Văn Mẫu (1914 - 1988) |
Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1914 tại làng Quất Động , Huyện Thường Tín, Tỉnh Hà Đông, nay là Hà Nội. Như mọi thanh niên thuộc gia đình danh giá thời bấy giờ, ông được gia đình đưa sang học ở Pháp và tốt nghiệp Đại học Luật khoa Paris, Pháp. Ông tiếp tục theo học tại đây cho đến khi lấy được bằng Thạc sĩ và trở về hành nghề luật tại Hà Nội. Hồi trước 1945, ông làm tri huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Cha vợ ông là Cụ Cử Sen Hồ Hoàng Gia Luận, em trai Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu.
Trưởng khoa Luật đầu tiên Đại học Sài Gòn
Em ruột ông là Giáo sư Vật lý Vũ Như Canh, giảng dạy tại Đại học Sư Phạm Hà Nội. Năm 1954, ông cùng gia đình chuyển vào Sài Gòn và tham gia giảng dạy Khoa Luật tại Đại học Sài Gòn, (ông Vũ Như canh ở lại Hà Nội). Vũ Văn Mẫu là Trưởng khoa người Việt đầu tiên của Khoa Luật tại Đại học Sài Gòn và được công nhận là một chuyên gia về pháp luật dân sự và lịch sử.
Trở thành Bộ trưởng Ngoại giao
Sau khi thực hiện Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tân thổng thống Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và mời ông giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ chức vụ này trong 8 năm, từ 1955 đến 1963. Trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, ông đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối.[1] Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.
Mâu thuẫn với chế độ Ngô Đình Diệm
Vốn là một nhà kỹ trị, ông hầu như đứng ngoài mọi biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với pháp danh Minh Không, ông phản đối những biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22 tháng 8 năm 1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Trở về Việt Nam
Suốt thời gian biến động miền Nam 1964-1967, ông hoàn toàn không tham gia vì công tác ở đại sứ ở nước ngoài. Mãi đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền tổng thống, ông mới được triệu hồi về nước. Ông trở thành Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1972, ông tranh cử Thượng nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen và đắc cử.
Thủ tướng 1 ngày
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông luôn hoạt động tích cực cho phong trào hòa bình và hòa giải cho dân tộc. Chính vì vậy, khi tướng Dương Văn Minh trở thành tổng thống, ông được đề cử cho chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa với mục đích tham gia thương lượng chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, ông chỉ ở trong chức vụ chỉ vỏn vẹn được một ngày thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trước sức tiến công của quân đội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông phải cùng tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu thêm nữa.
Cuộc sống cuối đời
Cũng như tướng Dương Văn Minh, chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuy thực hiện các biện pháp hạn chế nhưng không quá khắt khe với Vũ Văn Mẫu. Sau khi tình hình ổn định, họ cho phép ông được xuất cảnh sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.
Ông là một học giả lớn về luật của Việt Nam, uyên thâm cựu và tân học, biết nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hán và là một giáo sư giảng giải luật rất hấp dẫn. Tác phẩm của ông còn được René David và John E.C Brierley trích dẫn trong cuốn sách nổi tiếng về luật so sánh Major Legal Systems in the World Today.
Tác phẩm tiếng Việt:
Dân luật khái luận, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Dân luật lược giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Pháp luật diễn giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giảng, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, 1973
Cổ luật Việt Nam thông khảo, 2 tập, 1974
Tiểu từ điển luật và kinh tế, 350 tr; cùng Hồ Thới Sanh, Lê Đình Chân, Lưu Văn Bình, Nguyễn Cao Hách, 1973
Tự điển Hiến luật và Dân luật, đồng tác giả với Lê Đình Chân
Tự điển Pháp-Việt: pháp chính kinh tài xã hội, 895 trang; Viện Đại học Vạn hạnh xuất bản, 1970
Tự điển Pháp-Việt: pháp luật, chính trị và kinh tế 125 trang, 1955.
Năm 1989, khi lấy hiệu là Minh Không, ông viết bộ sách nói về "Hành trình mở cõi của dân tộc Việt" gồm 3 tập:
Tập 1: Việt - ChămPa
Tập 2: Việt - Phù Nam
Tập 3: Việt - Campuchia
Sách được đánh máy trên khổ giấy A4, không rõ ông đã xuất bản hay chưa.
Nguồn: Triệu Xuân blog.
____________________
Luật sư Lê Quang Vy:
ĐẾN THĂM GS VŨ VĂN MẪU – MỘT KỶ NIỆM QUÝ TRONG ĐỜI
(viết nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của GS Vũ Văn Mẫu 25/7/1914 – 25/7/2014)
Tôi có được một niềm hân hạnh và diễm phúc khi được người thầy khả kính của mình – Giáo sư - Tiến sĩ Luật khoa Đào Quang Huy đưa đến thăm Giáo sư - Thạc sĩ Luật khoa Vũ Văn Mẫu (tại Pháp Thạc sĩ Luật – Agrégation de droit - là một học vị chuyên môn trên tiến sĩ, dành cho những tiến sĩ muốn làm giáo sư đại học) tại nhà riêng ở đường Sương Nguyệt Anh, quận 1, TP.HCM, nhân dịp ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/1993, khi đó tôi đang là sinh viên năm thứ 3 Cử nhân luật tại Đại học Tổng hợp TP.HCM.
Ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi khi được gặp GS đó là một khuôn mặt phúc hậu, một nhà thông thái với đôi mắt sáng ngời và vầng trán cao rộng, mà ẩn chứa bên trong ấy là cả một uyên thâm cựu và tân học. Ấn tượng tiếp theo đó là sự cung kính lễ phép mà thầy của tôi – Thầy Đào Quang Huy đối với người thầy của mình. Cách xưng hô con và thầy (GS Vũ Văn Mẫu lớn hơn GS Đào Quang Huy 14 tuổi) giữa thầy Huy và GS Mẫu đã làm cho không khí buổi gặp mặt giữa ba thế hệ thầy trò chúng tôi trở nên gần gũi và ấm áp hơn. (xin được mở ngoặc nói thêm, cha của tôi cũng là một thầy giáo, trước năm 1975 ông là Giáo sư - Hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản – Đà Nẵng. Những dịp 20/11 tại nhà của cha tôi vẫn luôn đầy ắp những tiếng cười của những cựu học sinh trường Phan Thanh Giản, mà ngày nay tuổi của họ đã là những ông bà nội, ngoại). Điều này cho thấy nền giáo dục mà “ta” gọi là thực dân phong kiến (thế hệ thầy trò Vũ Văn Mẫu – Đào Quang Huy) và nền giáo dục thời Mỹ - Ngụy (thế hệ thầy trò của cha tôi), với nền tảng giáo dục cổ truyền, nho giáo, chủ trương “Tiên học lễ, hậu học văn” đã dạy người cái đức dục (lễ) và cái trí dục (văn) như thế nào? để rồi chúng ta có một sự so sánh nhẹ với nền giáo dục hiện nay vậy.
Thông qua tư liệu lịch sử tôi biết đến GS Vũ Văn Mẫu như là một nhà kỹ trị, một chính khách từng trải qua nhiều chức vụ như : trước năm 1945 ông là Tri huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên; từ 1955 đến 1963 là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Ngô Đình Diệm (trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, ông đã từ chức, cạo đầu để phản đối chính sách của chính quyền Ngô Tổng thống đối với Phật giáo). Sang thời đệ nhị cộng hòa ông là Thượng nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen, khối dân tộc. Và sau cùng ông được đề cử chức vụ Thủ tướng VNCH trong chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh với mục đích tham gia thương lượng chấm dứt chiến tranh. Ông được nhìn nhận là một nhân vật luôn hoạt động tích cực cho phong trào hòa bình và hòa giải dân tộc.
Song với tư cách là một luật sư, trước hết tôi xin phép được gọi ông là thầy, bởi trước hết do ông cũng là người thầy đáng kính của thầy của tôi. Và hơn nữa ông là một học giả lớn về ngành luật của Việt Nam - giáo sư thực thụ Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn là thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Đặc biệt trong vai trò luật sư, ông đã từng biện hộ cho sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm trong một vụ án chính trị nổi tiếng tại Sài Gòn trước năm 1975.
Những năm còn ngồi trên giảng đường đại học luật các bộ sách của ông như Cổ luật Việt Nam, Dân luật tổng quát, Pháp luật diễn giảng, Khế ước và nghĩa vụ… luôn là những bộ sách gối đầu giường của thế hệ sinh viên chúng tôi. Tác phẩm của Giáo sư Vũ Văn Mẫu còn được René David và John E.C Brieley trích dẫn trong cuốn sách nổi tiếng về luật đối chiếu The Major Legal System in the World Today. Ngoài ra, tại buổi tiếp xúc với GS Mẫu tại nhà riêng, ông cho chúng tôi biết ông đang hoàn chỉnh bộ sách “Hành trình mở cõi của dân tộc Việt” gồm 03 tập. Đến nay, tôi không rõ thông tin về bộ sách này đã hoàn tất sau khi ông qua đời hay chưa? Ai là người đang nắm giữ bản thảo? và bộ sách này đã được xuất bản (tất nhiên ở hải ngoại) chưa?...
Mặc dù các tác phẩm của ông được viết vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, nhưng phải đến những năm đầu thập niên 90, khi bước vào giảng đường đại học luật , thế hệ chúng tôi mới đươc biết và tiếp xúc đến các tác phẩm của ông. Ngày nay nhân loại dù đã bước sang thế kỷ XXI song các tác phẩm luật học của ông vẫn mang giá trị của thời đại bởi hơn hết đó là sự đúc kết một nền khoa học pháp lý văn minh của nhân loại , đó là những học lý đặt nền tảng cho việc xây dựng một nền pháp luật dân chủ, là kim chỉ nam cho một nhà nước pháp trị.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, nhà nước Việt Nam đang dần dần từng bước thừa nhận những học thuyết về kinh tế, về khoa học pháp lý… của Chủ nghĩa tư bản là những chân giá trị tinh hoa của nhân loại. Vậy không có lý do gì để tôi không tin tưởng rằng một ngày không xa, các tác phẩm kinh điển của Giáo sư Vũ Văn Mẫu sẽ được tái bản trở lại bởi do ông là một cây đại thụ của ngành luật Việt Nam, như luật sư Trương Thị Hòa đã từng viết trong Tạp chí Luật sư Việt Nam số 3, tháng 5/2014: “… Giáo sư Vũ Văn Mẫu, nhà nghiên cứu pháp luật đầu đàn ở miền Nam, mà qua các công trình khoa học pháp lý hiện nay cũng đã khẳng định ông là đầu đàn của cả nước… ”.
Hy vọng lắm thay./…
L.Q.V
__________________
LS Lê Công Định:
Tưởng niệm Giáo sư Vũ Văn Mẫu
.
Hôm nay vừa tròn 100 năm ngày sinh của Giáo sư Vũ Văn Mẫu (25/7/1914 - 25/7/2014). Là một học giả lỗi lạc về luật pháp và chính trị gia nổi tiếng trước năm 1975 tại miền Nam, ông từng là Thượng nghị sĩ, Ngoại trưởng và Thủ tướng của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, ngoài ra ông còn là Khoa trưởng và Giáo sư thực thụ của Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông qua đời năm 1998 tại Paris.
Giáo sư Vũ Văn Mẫu có kiến thức uyên bác về cựu và tân học, biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Latin và Hán. Ông trước tác nhiều tác phẩm luật học rất giá trị bằng tiếng Việt, mà cho đến nay chưa ai có thể so sánh. Tác phẩm của ông được các giáo sư luật đối chiếu danh tiếng thế giới như René David và John E.C Brierley trích dẫn trong các tác phẩm của mình.
Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông thông qua các tác phẩm ông để lại, từ sách, giảng văn, tạp chí, đến cả luận án tiến sĩ luật mà ông đệ trình tại Pháp. Năm 1989 tôi tốt nghiệp trường luật XHCN, đầy tự tin vì là sinh viên giỏi và chịu khó học hỏi, tích lũy kiến thức. Trong công việc đầu tiên của mình sau khi ra trường, trợ lý Trưởng Phòng Công chứng Nhà nước, tôi được tiếp xúc kho tư liệu và thư viện của Phòng Chưởng khế Sài Gòn trước năm 1975. Thú thật, khi đọc các văn kiện pháp lý và chứng thư công chứng được soạn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp trong kho tàng ấy, tôi đã hiểu từ mơ hồ đến … không hiểu gì cả.
Nhanh chóng nhận ra rằng mình đã hoàn toàn không được trang bị những quan niệm nền tảng của một nền học thuật pháp lý đúng nghĩa, tôi lập tức tìm đến các hiệu sách cũ còn bày bán các sách, giảng văn và tạp chí luật được ấn hành tại Sài Gòn trước đây. Một trong những tác giả mà tôi đọc nhiều nhất chính là Giáo sư Vũ Văn Mẫu, hầu như mọi trước tác của ông bằng tiếng Việt và tiếng Pháp tôi đều đọc đi đọc lại nhiều lần, thậm chí học được cả cách hành văn chính xác, ngắn gọn song trau chuốt từ ông.
Năm 1993 lần đầu tiên được diện kiến Giáo sư Vũ Văn Mẫu tại tư gia trên đường Sương Nguyệt Ánh, nhờ tháp tùng thầy của tôi là Tiến sĩ luật Đào Quang Huy (Đại học Luật khoa Sài Gòn), tôi thật ấn tượng về nếp sống bình dị và phong thái tự tại của một bậc đại trí ẩn dật như ông. Ông kể lại việc đệ trình luận án tiến sĩ luật vào năm 1948 và sau đó thi bằng Agrégation (Thạc sĩ luật) khó khăn như thế nào để làm giáo sư luật tại Pháp. Ông cũng thuật lại nhiều sự kiện hậu trường lúc đảm nhiệm chức vụ Ngoại trưởng dưới thời cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và giữ cương vị Thủ tướng trong chính quyền của cố Tổng thống Dương Văn Minh.
Một người thầy đáng kính khác của tôi là Tiến sĩ luật Võ Phúc Tùng (Đại học Luật khoa Sài Gòn), trong những câu chuyện sau giờ dạy riêng cho tôi về nền văn chương và luật học của Pháp, đã kể một mẩu chuyện mà ông ấn tượng về Giáo sư Vũ Văn Mẫu. Vì muốn viết một luận án tiến sĩ luật với đề tài “Les droits de la personne humaine sur son corps” (tạm dịch, quyền của con người trên thân thể của mình) (cần lưu ý, cho đến năm 1975, tại Đại học Luật khoa Sài Gòn hầu hết các luận án tiến sĩ ngành tư pháp phải viết và đệ trình bằng tiếng Pháp dù thầy và trò đều là người Việt), nên thầy tôi đến xin ý kiến của Giáo sư Vũ Văn Mẫu, lúc ấy vừa là giáo sư, vừa là Thượng nghị sĩ. Vừa nghe xong, vị giáo sư nói ngay rằng: “Tại sao anh lại chọn một công trình nghiên cứu khó khăn như thế? Lĩnh vực này không có nhiều tài liệu khảo cứu. Sau luận án tiến sĩ của Giáo sư Pháp André Decocq vào năm 1960 nhiều người muốn đào sâu thêm, nhưng hầu như không ai thành công với đề tài này. Anh phải thận trọng nếu không giới học giả Pháp sẽ chỉ trích anh.” Sau đó, vị giáo sư hướng dẫn thầy tôi tìm các tài liệu cần quan tâm.
Thầy tôi nói, sau khi nghe Giáo sư Vũ Văn Mẫu góp ý, ông choáng váng và tự hỏi rằng với bao nhiêu công việc quản lý và giảng dạy đại học, cùng hoạt động chính trị hàng ngày bận rộn như thế, vị giáo sư ấy tìm đâu ra thì giờ để có thể đọc rất nhiều về các lĩnh vực khác nhau của luật pháp, bởi trước đấy thầy tôi từng xin ý kiến của một vài giáo sư khác về đề tài luận án của mình, nhưng chưa thấy ai hiểu thấu đáo lĩnh vực quá chuyên sâu này!
Đối với các vị thầy của tôi, Tiến sĩ Võ Phúc Tùng và Tiến sĩ Đào Quang Huy, cũng như đối với nhiều vị học giả và luật sư khả kính khác thời Việt Nam Cộng Hòa, Giáo sư Vũ Văn Mẫu là một ngọn đuốc soi đường của nhiều thế hệ. Mặc dù chỉ là hậu bối và không trực tiếp lắng nghe ông giảng dạy, song gia tài học thuật ông để lại cũng đủ để tôi trang bị một hệ thống kiến thức nền tảng về luật học và nhận ra đâu là khoa học thật sự.
......
Hôm nay nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư Vũ Văn Mẫu, tưởng nhớ đến ông, tôi vẫn không thôi ao ước một ngày trên đất nước này, người Việt có được một nền luật pháp và học thuật pháp lý đạt đến tầm vóc và đỉnh cao của thế giới văn minh Tây phương, mà một thời tại mảnh đất miền Nam tưởng chừng chúng ta đã gần đạt đến.
(Hình đính kèm là tập luận án của Giáo sư Vũ Văn Mẫu đệ trình tại Đại học Luật khoa Paris ngày 1/7/1948).
L.C.D
...Tiểu từ điển luật và kinh tế, 350 tr; cùng Hồ Thới Sanh, Lê Đình Chân, Lưu Văn Bình, Nguyễn Cao Hách, 1973.
RépondreSupprimerGS Hồ Thới Sang, chứ không phải Sanh.