Lớp người tuổi 40 được Khổng Tử gọi là “Nhi bất hoặc” nghĩa là những người đã đủ năng lực kiến giải về phải-trái, tốt-xấu, biết điều gì là nên hay không nên. “Nhi bất hoặc” nghĩa là nghe người khác nói, ngẫm việc người ta làm mà biết đó là người yêu nước thương dân, là chính nhân quân tử hay kẻ xảo ngôn, ngụy biện.
Gần 5 triệu người Việt đang sống ở nước
ngoài, khá đông người thuộc vào tuổi 40, nhiều người đã có dịp về thăm quê cha
đất tổ, cũng có người chỉ biết qua báo chí, tivi.
Đối với quê hương, đồng bào trong nước, sự
“Nhi bất hoặc” thật khó vẹn toàn nếu trong tâm không mang nặng những chữ “Hòa
hợp, Hòa giải”.
Vào sáng chủ nhật, ngày 7 tháng
12 năm 1941 Hải quân Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ hải
quân của Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng, hơn 2.000 người Mỹ tử vong.
Ngày 6 và 9/8/1945 Mỹ ném bom nguyên tử
xuống Hiroshima và Nagasaki, số người Nhật tử vong vì hai quả bom này gấp hàng
trăm lần người Mỹ.
Ngày nay Mỹ và Nhật là đồng minh chiến lược,
là những người bạn.
Những cựu thù trong thế chiến 2, Đức, Pháp,
Anh, Nga ngày nay nếu không là đồng minh thân cận thì cũng là đối tác làm ăn.
Các nước vẫn kỷ niệm những cột mốc chiến
tranh nhưng người ta cố tránh những ngôn từ khơi lại lòng thù hận giữa các dân
tộc.
Nội chiến Hoa Kỳ, còn gọi là cuộc chiến
tranh Bắc-Nam, diễn ra trong bốn năm 1861-1865, đây là cuộc nội chiến đẫm máu
nhất lịch sử Hoa Kỳ, khoảng 750.000 binh sĩ thiệt mạng, số lượng dân
thường thiệt mạng nhiều không thể xác định.
Theo sử gia John Huddleston thì số nam giới
tử vong trong cuộc chiến này chiếm khoảng 20% toàn bộ số nam giới Hoa Kỳ độ
tuổi từ 18 đến 45. [1]
Thế giới luôn tồn tại một nguyên tắc “không
tồn tại kẻ thù hoặc bạn bè vĩnh viễn, chỉ có quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn”.
Với gần năm triệu người Việt định cư ở nước
ngoài, có thể quốc gia không còn là vĩnh viễn nhưng họ vẫn mang trong mình dòng
máu Lạc Hồng như 90 triệu đồng bào trong nước, quốc gia có thể thay đổi nhưng
dân tộc là vĩnh viễn không thể chối bỏ.
Điều may mắn khi con người trở thành chủ
nhân hành tinh này lại đi kèm nỗi bất hạnh, ấy là sự hình thành các quốc gia,
dân tộc với ngôn ngữ khác nhau, ý thức hệ khác nhau, sự giàu có và nghèo đói
khác nhau…
Thứ mà con người hướng tới là một thế giới
bình đẳng, bác ái, văn minh, không đói nghèo, bệnh tật, không chiến tranh cho
đến giờ này vẫn còn là một mơ ước xa vời. Loài người vẫn ngày ngày tập trung
trí tuệ tìm ra những vũ khí hủy diệt chính sự tồn tại của mình.
Khi Lịch sử đặt những bước chân xuống hành
tinh này, nếu vết chân bên phải là những tiến bộ, văn minh, là lòng nhân ái, vị
tha thì vết chân bên trái luôn là những cuộc chiến tàn khốc, làng mạc bị tàn
phá, môi trường bị hủy hoại và khủng khiếp nhất là hàng chục triệu con người,
cả dân thường lẫn chiến binh phải trả giá bởi sinh mạng của mình.
Tại sao cho đến bây giờ, chiến tranh vẫn là
công cụ cho cuộc chiến sinh tồn của các cộng đồng? Hình thức chiến tranh có thể
khác nhau: chiến tranh kinh tế, thương mại hay bom đạn nhưng mục đích cuối cùng
vẫn là sự thống trị của quốc gia này với quốc gia khác, của tộc người này với
tộc người khác, của hệ tư tưởng này với hệ tư tưởng khác.
Không ít chính khách cho đến giờ này vẫn
nuôi tham vọng lãnh đạo thế giới.
Xem dân tộc mình là thượng đẳng, người Đức
phát động chiến tranh thế giới mà nạn nhân đầu tiên là người Do Thái. Đến lượt
mình, người Do Thái đàn áp người Palestine, người Anh da trắng coi người da đen
ở Nam Phi là nô lệ, vua chúa Trung Hoa ngày xưa luôn coi các dân tộc khác là
man di, mọi rợ…
Đã đến lúc mỗi người, không phân biệt màu
da, tiếng nói phải làm một việc gì đó để xóa đi nỗi bất hạnh mà tạo hóa mang
lại cho loài người là sự tham lam, ích kỷ.
Sinh ra trong nỗi bất hạnh, loài người
không thể tiếp tục reo rắc sự bất hạnh cho các thế hệ mai sau.
Người Việt chúng ta cũng vậy, sinh ra và
lớn lên trong chiến tranh dựng nước và giữ nước từ thủa Hùng Vương đến tận hôm
nay, sự ly tán đã hằn sâu trong mỗi nếp nhà.
Điều mà thế hệ người Việt hôm nay phải làm
là sự hòa hợp, hòa giải.
Tôi và các bạn, chúng ta phải làm sao cho
mỗi người Việt, dù sống ở bất kỳ phương trời nào cũng nhớ đến ngày giỗ Tổ mùng
mười tháng ba âm lịch chứ không phải là ngày cất bước ra đi.
Thứ duy nhất mà chúng ta cần lúc này có lẽ
là sự bao dung, “những gì mà mình không thích thì đừng bắt người khác phải
thích”, một triết gia đã nói đại ý như vậy.
Sự bất hạnh của nhân loại chẳng qua chỉ là
tổng hợp nỗi bất hạnh của từng dân tộc. Với tham vọng thống trị thế giới, những
kẻ đầu cơ chính trị luôn sử dụng cách thức chia để trị, đối ngoại là chia rẽ
các quốc gia, dân tộc, đối nội là chia rẽ các tầng lớp cư dân.
Trong một xã hội có giai cấp mà quyền lợi
đối kháng nhau, chính quyền luôn là công cụ được giai cấp thống trị sử dụng để
trấn áp các giai cấp đối kháng.
Đây là quan điểm kinh điển của các triết
gia về chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghĩa là nó đúng với mọi chính thể không phân
biệt hệ tư tưởng.
Đánh giá một giai đoạn lịch sử của đất
nước, hay các chính trị gia dưới góc nhìn bao dung sẽ giúp chúng ta bớt đi định
kiến. Những gì thuộc về lịch sử hãy để lịch sử phán xét, cố tô hồng hay bóp méo
cũng không thể thay đổi lịch sử, có chăng nó chỉ thỏa mãn một chút ấm ức trong
lòng.
“Thái quá, bất cập”, cái gì quá cũng đều
không tốt, yêu quá không tốt mà ghét quá cũng không tốt.
Để duy trì địa vị lãnh đạo quốc gia, chỉ có
hai con đường, hoặc là thống trị dân tộc mình bằng niềm tin hoặc là bằng bạo
lực. Đạt được quyền lãnh đạo bởi sự tin tưởng của đa số cư dân luôn khó khăn
nhưng bền vững bởi niềm tin luôn sinh ra niềm tin, bạo lực bao giờ cũng sinh ra
bạo lực, chỉ có niềm tin mù quáng mới sinh ra bạo lực mà thôi.
Niềm tin cháy bỏng, mơ ước ngàn đời của
người Việt là gì? Đó là “sông núi nước Nam vua Nam ở”, đó là “dù có phải đốt cả
dãy Trường Sơn cũng phải giữ cho được tự do độc lập”.
Người Việt có thể có chính kiến khác nhau
nhưng luôn có điểm chung, ấy là sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ luôn được đặt
lên hàng đầu.
Không một người Việt nào mong muốn ngoại
bang dày xéo quê hương, vậy nên những bậc tiền nhân có công quét sạch xâm lăng
giữ yên bờ cõi như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp… luôn được dân chúng tôn thờ.
Thăm Côn Đảo, viếng mộ nữ anh hùng Võ Thị
Sáu, bất kể người Việt trong nước hay kiều bào hải ngoại đều cúi đầu thành kính.
Khác biệt về chính kiến của những người thắp nhang không hề ảnh hưởng đến sự
ngưỡng vọng mà họ dành cho những người yêu nước đã ngã xuống để bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ bất kỳ vị thế của họ là như thế nào.
Tác giả Allen Quach trong bài “Tuổi bất
hoặc”[2] nêu câu hỏi với cha mình: “Tại sao nhà mình lại chống cộng? Tại sao
con lại phải chống cộng? Con bây giờ là người Mỹ. Con có bị cộng sản hành hạ gì
đâu?”.
Có những ẩn ý phía sau các câu hỏi, dẫu sao
nói ra được suy nghĩ của mình cũng là điều tốt, còn hơn là cứ ấm ức suốt cuộc
đời.
Những người cộng sản lãnh đạo đất nước hơn
nửa thế kỷ qua, không phải là không hề mắc sai lầm, không phải tất cả đều là
những tấm gương trong sáng.
Song sự thật không thể phủ nhận là chính họ
đã lãnh đạo dân tộc quét khỏi bờ cõi bốn kẻ địch mạnh nhất thời đại là Pháp,
Nhật, Mỹ, Trung, khiến giang sơn thu về một mối.
Vậy có nên vì chút niềm riêng mà phủ nhận
tất cả, có nên khiến cho con cháu cứ ngơ ngác với những câu hỏi “tại sao” như
trường hợp của Allen Quach?
Nước Mỹ ngày nay trở nên hùng cường chính
vì họ đã biết vượt qua nỗi đau của cuộc chiến huynh đệ giữa thế kỷ 19.
Một dân tộc đoàn kết trong một quốc gia
thống nhất luôn là sức mạnh vượt qua mọi trở ngại, chia rẽ khối đoàn kết dân
tộc Việt là phân tán sức mạnh, là nguy cơ khiến đất nước tụt hậu về kinh tế,
quân sự, trở lại thời kỳ phụ thuộc vào nước ngoài.
Sau gần tám trăm năm lưu lạc sang Hàn Quốc,
hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường, của Kiến Hải vương Lý Dương Côn vẫn tìm
đường trở về với nguồn cội để thắp nén nhang tưởng nhớ tổ tiên.
Ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 31 của
Hoàng tử Lý Long Tường đã tặng lãnh đạo Việt Nam câu đối bằng tiếng
Hàn: “Thân dẫu ở xa muôn vạn dặm. Hồn lưu Tổ quốc xứ Việt Nam”.
Đấy là nói về những người con xa xứ, còn ở
trong nước những năm tháng đánh giặc giữ quê, vị thi tướng người Nam Bộ Huỳnh
Văn Nghệ đã lưu lại vần thơ bất hủ: “Từ thủa mang gươm đi mở cõi, Trời Nam
thương nhớ đất Thăng Long”.
Người Việt là như thế, xa nhớ, gần thương,
lẽ nào thế kỷ 21 này vẫn còn một bộ phận người Việt không thể theo gương những
người đi trước?
Nhiều người gốc Việt tuổi trên dưới 40
không sinh ra trên đất Việt, không mang quốc tịch Việt Nam, thậm chí không biết
tiếng Việt, nhưng như vậy không có nghĩa là gen di truyền của họ không thuộc về
dòng giống Lạc Hồng.
Mong sao người Việt khắp năm châu, cũng như
hậu duệ của Lý tộc ở Hàn Quốc, luôn nhớ rằng quê hương, dòng tộc mãi mãi vẫn ở
nơi dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương, đầy đau thương nhưng cũng đầy
kiêu hãnh?
Những bậc làm cha, làm mẹ của thế hệ “nhi
bất hoặc” rời Việt Nam những năm 70 của thế kỷ trước, hẳn tất cả đều đã “lục
thập nhi nhĩ thuận” hay “thất thập cổ lai hy”, xin kể tặng quý vị một đoạn
trong truyện ngắn “Con chim Cú gáy” mà người viết tình cờ đọc được từ mấy chục
năm trước khi đang ở châu Âu.
Truyện rằng “Trên một cành cây khô ở góc
vườn, vào một chiều thu muộn, có con chim cu gáy cất lên tiếng gáy trầm buồn:
“Cuộc sống đẹp vô cùng, bạn trẻ ơi, hãy yêu đi, hãy sống đi, còn tôi, tôi chỉ
có một mình, cúc cu, cúc cu…”.
Chúng ta, những người lớn, dù sống ở bất kỳ
phương trời nào, có nên nhìn về cố hương như con chim cu gáy nọ, hãy để cho con
chúng ta, cháu chúng ta “yêu đi, sống đi” và hãy giữ lại nỗi buồn cho riêng
mình nếu không thể hay không muốn chia sẻ nỗi buồn với cuộc đời?
Sự chia cắt (nếu vẫn còn tồn tại) giữa
những người phía bên này hay phía bên kia không phải được hình thành bởi những
dòng sông hay bởi sự mênh mông của đại dương mà nằm trong suy nghĩ của mỗi
chúng ta.
Xóa nhòa sự ngăn cách ấy chính là nhịp cầu
bao dung đã được xây cất từ hai phía, từ 90 triệu đồng bào trong nước và gần 5
triệu đồng bào ở nước ngoài. Bước lên cầu hay dừng lại là tùy thuộc mỗi người
nhưng thời gian không chờ đợi ai cả.
Nhìn về phía sau, sẽ chỉ thấy vết chân của
mình, ngoái đầu nhìn mãi sẽ bỏ lỡ giây phút đón bình minh, bạn và tôi, chúng ta
đều biết bình minh luôn rạng rỡ dù có hay không có tiếng gà gáy sáng.
Đoàn tàu bao dung đã khởi hành, đích đến là
hòa hợp và hòa giải, những ai còn tần ngần trên sân ga, có sợ rằng có thể sẽ bị
muộn?
Tài Liệu tham khảo:
[2] http://nguoidan.com/nd164/tuoiba.htm
Quảng Cáo
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire