Nguyễn Quang Lập
Posted: 07/06/2015
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995) |
Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.
Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có
đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự viết
của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh bịa, hồi đó nghe
người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho đến ngày anh ngồi kể cho
mình nghe, khoảng năm 85 – 86 chi đó, anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo hay tròn.
Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra bãi dương (trường bắn) được
lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm
thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong
hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên,
hi hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con đường lót
xương các tù nhân, he he.
Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài
thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu
vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một
nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường chị vừa đi vừa
hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc
đẹp lắm. Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại
đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức
Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc
khi đó bác Toàn cũng không biết cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa hoa lê-ki-ma nở
ở quê ta miền đất đỏ/ Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng/ Đã chết cho mùa hoa
lê-ki-ma nở…Chị Sáu đã hy sinh rồi/ Giọng hát vẫn như còn vang dội vào trái
tim…Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người
ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.
Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh
đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập Lập mày bê chiếc xe
đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi, nặng quá là nặng.
Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng như chiếc xe máy. Anh
Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là
xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này
anh kiếm được thời viết văn chui đấy, chuyện hay lắm.
Anh kể đâu như năm 69 – 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp
I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn. Trời
rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy đã bảy, tám
giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm, nghĩ bụng không
biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ báo thức Liên Xô hồi
đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là cả một món tiền to. Nhưng giá
có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị
cắt mất, anh đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.
Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa
lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin. Ngó xuống phần
giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ
khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái giải khuyến khích.
Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích.
Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ đang làm
công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên
chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn
mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân chắc người ta sẽ
ưu tiên hơn.
Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống
ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải thưởng. Hơn
nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to đầu mà dại, tự nhiên
đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước Xã hội Chủ nghĩa, cái giải
rút cũng đừng có mà mơ.
Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau.
Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa cầm ra
đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo đùi mình hai
ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị, nói anh mần ri chết
em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn
khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở nơi khỉ ho
cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về Lênin thế mới
kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các nhà báo kéo
nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.
Chuyện nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải
nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy, khéo
không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương cho trót, cố
làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích cái truyện, đặt ra đủ
loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với đám nhà báo. Chú em họ cay
đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu lộ ra anh Quán chết thì anh
cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ
báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi rồi tha
cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi cũng “tăng
xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em họ kể, hết lâm
trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi
lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo
thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy
lên sau gáy, mặt mày xanh như đít nhái.
Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận
chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi hộp. Anh
nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng thẳng đến độ mồ
hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến phút chót mọi việc bị
lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em họ đẩy chiếc xe đạp đi ra.
Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói
em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không
biết bao nhiêu lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.
Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.
Nguyễn Quang Lập
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire