09/06/2017

ĐÁNH GIÁ TIẾP CHUYẾN ĐI CỦA THỦ TƯỚNG


Nguyễn Quang Dy



Cuộc gặp được mong đợi giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Donald Trump đã diễn ra ngày 31/5/2017, nhưng dư âm của nó vẫn còn, với những đánh giá kết quả khác nhau. Trong khi nhiều người kết luận là thành công, thì không ít người lại cho là thất bại. Thậm chí có người còn để ý đến cái bắt tay xem ông Trump “nắm chặt hay nhẹ”.
Sau mỗi lần giao dịch quan trọng, người ta thường kiểm kê lại xem kết quả ra sao, vì vậy cuộc gặp giữa ông Phúc và ông Trump cũng không phải ngoại lệ, cần được đánh giá lại một cách khách quan. Căn cứ vào thái độ thì cả hai nhà lãnh đạo đều tươi cười, có vẻ hài lòng với một giao dịch “cùng thắng” (win-win). Căn cứ vào “Tuyên bố Chung về Tăng cường Đối tác Toàn diện Việt Nam-Mỹ”, thì những kết quả (chính thức) là rất khả quan. 



Các chuyên gia đánh giá 

Nội dung Tuyên bố Chung (Joint Statement), không có gì thật bất ngờ (not unexpected). Tài liệu này dài hơn 3 trang, khoảng gần 2000 từ (bản tiếng Anh), ngắn hơn một chút so với Thông cáo Chung 14 điểm về chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Tuyên Bố Chung đề cập đến nhiều chủ đề, có chủ đề rất chi tiết (như về thương mại), nhưng có chủ đề rất chung chung (như về Nhân quyền và Biển Đông). Tuy đoạn nói về Biển Đông không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng rõ ràng ám chỉ các hành động của Trung Quốc.
Nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá chuyến thăm “thành công” nhưng “chưa đủ” (nice but not enough), theo ông Muray Hiebert (chuyên gia về Đông Nam Á của CSIS). Còn ông Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason & CSIS fellow) nhận xét: “tuy có một số kết quả nhỏ nhưng không có đột phá”, dù đã làm tăng cường quan hệ hai nước (tăng lên chứ không giảm đi). Tuy ông Trump nói với các nhà báo là sẽ trao đổi với ông Phúc về thương mại và Bắc Triều Tiên, nhưng trong Tuyên bố Chung họ đã đề cập đến vấn đề Biển Đông một cách thuận lợi cho Việt Nam. Việt Nam muốn Mỹ và Trung Quốc “hành xử một cách minh bạch và có trách nhiệm”, để không gây hậu quả xấu cho những nước khác, vì “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết”. Việt Nam lo ngại Mỹ và Trung Quốc có thể đi đêm với nhau, nên trước đó Mỹ đã cho tàu chiến tuần tra Biển Đông (FONOP), trao 6 tàu tuần duyên cho Việt Nam. Hai bên cũng đã trao đổi về khả năng tàu sân bay Mỹ thăm quân cảng Việt Nam.
Theo ông Carl Thayer (Australian Defense Academy), chuyến thăm Mỹ của ông Phúc đã “thành công tốt đẹp”, cho thấy đường lối ngoại giao tích cực của Việt Nam đã “mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước, tạo ra một bầu không khí thuận lợi” làm cho Tổng thống Trump “phản ứng một cách tích cực”, vì Thủ tướng Phúc đã “đánh trúng tâm lý của ông Trump”. Ông Ngô Vĩnh Long (Đại học Maine) cho rằng quan hệ thương mại Việt-Mỹ (đặc biệt là nhập siêu) thật ra “không phải là vấn đề quan trọng lắm” vì chỉ có $32 tỷ/năm, không bằng một tháng của Trung Quốc ($347 tỷ/năm), nên tháo gỡ vấn đề này “chỉ để cho ông Trump hãnh diện đối với dân Mỹ thôi”. Trong khi đó, ông Long cho rằng Mỹ có “3 vấn đề quan trọng hơn” là với ASEAN (quan trọng nhất), với APEC (thứ hai) và với LHQ (thứ ba).
Theo ông Jonathan London (Đại học Laiden, Hà Lan) ông Trump đã gặp Nguyễn Xuân Phúc và “họ đã có những đàm phán rất xây dựng và có vẻ kết quả tương đối tốt”… đối với vấn đề quốc phòng và an ninh, cũng như vấn đề thương mại, thì Mỹ và Việt Nam “có một quan hệ rất tốt, và chúng ta có thể chờ đợi sự phát triển của quan hệ này một cách rất mạnh mẽ”… nhưng muốn thấy vấn đề nhân quyền được nâng cao, thì “chắc chắn là thất vọng” vì Donald Trump lên cầm quyền ở Mỹ là một “thảm họa cho vấn đề nhân quyền cũng như vấn đề về khí hậu”… London “không nhất trí là Trump lo về vấn đề việc làm cho người Mỹ, mà chủ yếu ông ấy lo về vấn đề làm giàu thêm cho những người giàu hiện nay”. (BBC, 4/6/2917).
Tuy nhiên, nếu nói Tuyên bố Chung không nhắc đến vấn đề Nhân quyền và Biển Đông là không chính xác. Đoạn nói về Nhân quyền hay Biển Đông (cũng như hợp tác an ninh quốc phòng) đều dài hơn 200 từ, trong đó có nói đến chuyển giao tàu tuần dương, hợp tác hải quân, nhu cầu mua sắm thêm vũ khí, và khả năng tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam.
Hiện nay, giới bất đồng chính kiến đòi tự do, dân chủ và nhân quyền (trong và ngoài nước) đang có tâm trạng thất vọng vì ông Trump không coi trọng nhân quyền, và chuyến thăm Mỹ của ông Phúc không thất bại như họ suy đoán. Muốn hay không, phải thừa nhận một thực tế đang diễn ra tại Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới là toàn cầu hóa và tự do dân chủ đang suy thoái. Nhiều người Mỹ đang lo ngại nền dân chủ có thể đổ vỡ (“broken democracy”). Tuy đổi mới thể chế là cấp thiết, nhưng lúc này đoàn kết dân tộc để chấn hưng đất nước là mục tiêu cấp bách, trong khi đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền là một quá trình lâu dài.

Vận động hành lang 

Một số người bất đồng chính kiến có xu hướng đánh giá “chuyến đi thất bại” (thậm chí trước khi sự kiện diễn ra), như “cầm đèn chạy trước ô-tô”. Trong khi một số chuyên gia Việt Nam lại tỏ ra quá lạc quan khi cho rằng chuyến đi thành công “ngoài mong đợi”, nâng quan hệ hai nước “lên một tầng rất cao” (Ts Trần Việt Thái). Ông Thái nói đây là một chuyến đi “rất thành công”… định hình một tầm nhìn, một định hướng trong quan hệ Việt-Mỹ trong thời gian tới. Có người cho ông Phúc là “cao tay” hay “tay không bắt giặc”. Không biết Thủ tướng “CLMV” tài giỏi hay do đóng góp của các trợ lý và vận động hành lang (lobbying).
Theo Reuters (June 4, 2017), Hà Nội sợ đánh mất những gì đã đạt được với Chính quyền Obama nên đã bắt đầu vận động hành lang ngay từ khi Donald Trump được bầu, bằng một nỗ lực vận động được phối hợp đồng bộ (concerted lobbying). Vì vậy, cuộc điện đàm giữa Thủ tướng Phúc với ông Trump đã được thu xếp một tháng trước khi ông Trump nhậm chức. Theo giới ngoại giao và nghiên cứu, có một số nhân tố quan trọng như Đại sứ Phạm Quang Vinh (là người có vai trò và kinh nghiệm vận động cho các vấn đề như TPP và bỏ cấm vận vũ khí), Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và thứ trưởng Hà Kim Ngọc (đã sang Mỹ vận động). Đại sứ Mỹ Ted Osius (là nhà ngoại giao chuyên nghiệp nên được giữ lại tại Hà Nội) cũng có vai trò tích cực. Ngoài ra còn có sự trợ giúp của bạn bè trong Quốc Hội, trong giới học giả và kinh doanh. Nhưng không thể thiếu vai trò của công ty vận động hành lang (lobbying firm) Podesta Group được Hà Nội thuê với giá $30.000/tháng (theo số liệu Bộ Tư pháp Mỹ). (“Vietnam’s White House lobbying coup secures strategic gains”, Mai Nguyen, Reuters, June 4, 2017).
Thông thường, đầu mối liên lạc để vận động là Hội đồng An ninh Quốc gia (cụ thể là ông Matt Pottinger, giám đôc phụ trách Đông Á), văn phòng Phó Tổng thống Mike Pence, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, v.v. Vì vậy khi ông Phúc được tiếp tại Nhà Trắng, có nhiều nụ cười và ông Trump tỏ ra thoải mái với thủ tướng Việt Nam, hơn là với các nhà lãnh đạo phương Tây khác. Ông Carl Thayer cho rằng thành công một phần là do đường lối ngoại giao tích cực (pro-active diplomacy from Hanoi). Bản Tuyên bố Chung Việt-Mỹ lần này cũng thuận lợi cho Việt Nam (như năm ngoái), đặc biệt là về vấn đề Biển Đông nơi Việt Nam đang tranh chấp với Trung Quốc. Tuyên bố Chung đề cập đến khả năng tàu sân bay Mỹ đến thăm quân cảng Việt Nam, mua sắm trang bị quốc phòng, và hợp tác về hải quân cũng như tình báo. 

Thương mại song phương

Dù sao, trước mắt giải tỏa vấn đề thương mại (Mỹ nhập siêu $32 tỷ) vẫn là cấp bách hàng đầu (vì khẩu hiệu “America First”) nên Hà Nội phải “đẩy tốt qua sông” để lấy lòng ông Trump, như một “món quà ăn hỏi”. Chính vì vậy, ông Phúc đã tuyên bố con số $15 tỷ sẽ được giao dịch. Tuy kết quả giao dịch thực tế được ghi nhận trong Tuyên bố Chung chỉ có $8 tỷ (bằng hơn nửa dự kiến) trong đó ít nhất có $5 tỷ liên quan đến các giao dịch được công bố từ năm ngoái, nhưng ông Trump vẫn đánh giá cao và hài lòng (như trong câu truyện ngụ ngôn “Phú ông xin đổi mâm xôi Bờm cười”). Bộ Thương mại khoe phía Mỹ đã ký 13 giao dịch với Việt Nam trị giá $8 tỷ, mang lại khoảng 23.000 công ăn việc làm cho người dân Mỹ.
Ông Carl Thayer nhận xét Việt Nam “tỏ ra linh hoạt và đưa ra những đề xuất về cách thức các doanh nghiệp Hoa Kỳ có thể gia tăng xuất khẩu sang Việt Nam”, trong bối cảnh thâm hụt thương mại Mỹ-Việt ở mức $32 tỷ. Tuy thương mại đứng đầu trong nghị trình, và nằm ở top đầu trong Tuyên bố Chung, nhưng hợp tác chiến lược còn có ý nghĩa quan trọng hơn. Carl Thayer cho rằng, “tuy có sự hỗn loạn trong Nhà Trắng cũng như sự bất nhất về chiến lược” do những tuyên bố trái ngược của Trump, nhưng Hà Nội nay đã được trấn an một phần vì hiểu rõ hơn về đường hướng của quan hệ song phương với Mỹ trong những năm tới. Việt Nam vẫn có thể “đa phương hóa và đa dạng hóa” quan hệ song phương khi biết rằng “Mỹ vẫn duy trì cam kết về đối tác toàn diện với Việt Nam và vẫn hướng về Đông Nam Á”.
Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, tuy hai bên đã ký một số hơp đồng trị giá $8 tỷ, nhưng không có dấu hiệu hai bên sẽ sớm đạt được một hiệp định thương mại song phương (như Việt Nam mong muốn). Điều đáng chú ý là về hợp tác an ninh quốc phòng, hai bên sẽ tăng cường hợp tác hải quân và tình báo, và có khả năng tàu sân bay Mỹ sẽ tới thăm Việt Nam. Trong khi ông Trump dành nhiều quyền cho giới quân sự, thì họ luôn quan tâm đến vấn đề chiến lược. Thực ra, vấn đề hợp tác an ninh quốc phòng có triển vọng và ý nghĩa quan trọng hơn cả thương mại. Đây có thể là xu hướng quan hệ Việt-Mỹ trong giai đoạn tới, tuy Hà Nội vẫn phải chơi cờ thế như hiện nay để cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, trong khi từng bước nâng cấp quan hệ “đối tác toàn diện” với Mỹ bằng cách lồng ghép một số “nội dung chiến lược”.
Từ khi chính thức nhậm chức, và nhất là sau tuần trăng mật, Tổng thống Trump đã thay đổi nhiều lập trường, khác với lúc tranh cử (thậm chí ngược lại). Tuy nhiên, Trump hầu như chưa có chính sách, mà chỉ đối phó tình huống. Ví dụ, Trump thay đổi lập trường với Trung Quốc, chủ yếu nhằm đối phó tình huống với Bắc Triều Tiên, làm Hà Nội lo ngại về cam kết của Mỹ tại Biển Đông. Trước mắt, tuy chưa có dấu hiệu Trump thay đổi lập trường về TPP, nhưng Hà Nội vẫn mong có một ngày nào đó, Trump sẽ quay lại sân chơi TPP và tiếp tục chính sách tái cân bằng tại Đông Á, một khi tình thế thay đổi, hoặc các cố vấn chủ chốt thuyết phục được Trump thay đổi nhận thức về Trung Quốc và vấn đề an ninh Đông Á. 

An ninh quốc phòng 

Tuy Mỹ sẽ tìm cách thay đổi cán cân thương mại (đang bị thâm hụt), nhưng quan hệ Việt-Mỹ không phải chỉ có thương mại. Theo Jonathan London, nó còn “liên quan đến tương lai trật tự kinh tế và thương mại của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”. Việt Nam vừa phải tăng cường đối tác toàn diện với Mỹ (theo hướng đối tác chiến lược toàn diện), vừa phải tăng cường đối tác chiến lược toàn diện với Nhật, như một trụ cột mới ở Đông Á.
Đáng chú ý là trong khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hội đàm với Tổng thống Donald Trump tại Nhà Trắng (31/5/2017) thì TNS John McCain dẫn đầu phái đoàn Ủy ban Quân vụ Thượng viện (và Hạ Viện Mỹ) đã đến thăm tàu USS John McCain tại quân cảng Cam Ranh, trong chuyến thăm Việt Nam (từ 31/5-2/6/2017). Trước đó John McCain đã gặp Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch. John McCain viết trên trang Twitter (1/6/2017) là ông “Rất vinh hạnh gặp gỡ các quan chức Việt Nam, cũng như giới lãnh đạo xã hội dân sự vào thời điểm quan trọng nhất trong quan hệ Mỹ-Việt”.
Trong lần gặp Chủ tịch nước Trần Đại Quang (1/6/2017) John McCain nói: “Hoa Kỳ ủng hộ tự do hàng hải, hàng không trong khu vực; hợp tác giữa các quốc gia nhằm ngăn chặn những nguy cơ về an ninh đối với sự phát triển, ổn định”. Hợp tác quân sự giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay rất quan trọng, trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục là mối đe dọa an ninh trên Biển Đông. Hợp tác quân sự Việt-Mỹ bao gồm cả việc quân đội Mỹ sử dụng kho cất trữ thiết bị vật tư trên lãnh thổ Việt Nam để sử dụng ngay khi cần thiết.
Tại Diễn đàn Đối thoại hàng năm về An ninh tại Shangri-la, Singapore (2/6/2017), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis nói thẳng “Chúng tôi phản đối các quốc gia quân sự hóa các hòn đảo nhân tạo và thực thi thái quá các yêu sách biển… Chúng tôi không thể và sẽ không chấp nhận những thay đổi đơn phương, cưỡng ép hiện trạng”.

Bàn cờ chiến lược

Theo ông Alexander Vuving (giáo sư tại Asia-Pacific Center for Security Studies, Hawaii), “Chính quyền Trump rất quan tâm đến việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, vì Hoa Kỳ nhận thức rõ vai trò chiến lược của Việt Nam tại Châu Á”.
Ông Michael Green (Phó chủ tịch CSIS) nói với Washington Times “thắt chặt quan hệ liên minh với Hoa Kỳ về an ninh cũng là một mục tiêu hàng đầu trong chuyến đi Mỹ của ông Phúc”. Theo Michael Green, ông Phúc muốn liên minh với ông Trump tương tự như liên minh mà ông Trump đã thiết lập với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe. Ông Green nói: “Việt Nam không phải là một quốc gia muốn xa lánh Mỹ vì ông Donald Trump làm tổng thống”. Báo Washington Times dẫn lời ông Anthony Cordesman, một chuyên gia quân sự tại CSIS, nói: “ai cũng biết là Việt Nam từ lâu vẫn coi Trung Quốc là một mối đe doạ đối với sự tồn tại của mình, và ông Phúc mong muốn Mỹ đóng một vai trò lớn hơn trong vấn đề Biển Đông”.
Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác tin rằng chỉ có Hoa Kỳ mới có thể kiềm chế những hành động hung hăng nhằm áp đặt chủ quyền của Trung Quốc. Một lựa chọn cho chính quyền Trump là bán thêm vũ khí và chuyển giao thiết bị quâ sự cho các đồng minh như Việt Nam, để tăng cường khả năng chiến đấu của lực lượng hải quân các nước này. Theo ông Rodger Baker, (Phó Chủ tịch Stratfor Global Intelligence), “Trong tuần qua, Washington đã chuyển giao một số tàu cho lực lượng Tuần duyên Việt Nam. Hai bên đã có giao lưu hải quân và Mỹ cũng đã dỡ bỏ một số hạn chế đối với việc xuất khẩu vũ khí sang Việt Nam”.
Theo ông Jonathan Stromseth (viện Brookings), chuyến thăm Washington của Thủ tướng Việt Nam “đã tăng thêm đà cho mối quan hệ Việt-Mỹ ngày càng có tính cách chiến lược hơn”. Ông Stromseth cho biết Nhà Trắng cũng đang lôi kéo một số quốc gia Đông Nam Á khác khi Trung Quốc tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng và lo ngại ngày càng tăng về cam kết của Mỹ đối với khu vực, đặc biệt sau khi Washington rút ra khỏi Hiệp định TPP. 

Một số rào cản

Ông Joshua Kurlantzick (Senior Fellow, CFR), thừa nhận Viêt Nam vừa có những đơn đặt hàng trị giá $8 tỷ, đóng góp tạo ra công ăn việc làm cho người Mỹ. Hai bên đã thảo luận một số vấn đề chiến lược, như Việt Nam muốn mua thêm tàu tuần duyên của Mỹ. Nhưng những giao dịch này chưa chắc làm cho Chính quyền Mỹ hài lòng, vì sự hứng khởi này che đậy một số rào cản đối với việc tăng cường và nâng cấp đối tác toàn diện thành đối tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia cựu thù này. Dưới đây là một vài ví dụ để minh họa.
Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer nhấn mạnh $32 tỷ thâm hụt thương mại với Việt Nam, cho rằng Việt Nam thu lợi một cách bất công qua thương mại với Mỹ, vì bán cho Mỹ nhiều hơn là mua của Mỹ. Trong chuyến đi vừa qua, Thủ tướng Phúc đã dùng hình ảnh chiếc giày để vạch ra những bất cập trong thâm hụt thương mại với Mỹ, làm Việt Nam được lợi rất ít từ Mỹ qua giao dịch thương mại. Nhưng chắc là phía Mỹ vẫn tiếp tục công khai lên án và ép Việt Nam để cố gắng làm giảm thâm hụt thương mại nói trên. Ví dụ, các nhà thầu quân sự Mỹ có thể ký những hợp đồng quân sự quan trọng với Việt Nam.
Vì vậy một Hiệp định TPP mà không có Mỹ sẽ tiếp tục làm tăng thêm sự khác biệt giữa hai bên. Thật khó mà hình dung được trong mấy năm tới, làm thế nào hai nước có thể tìm được đủ thiện chí cho các vấn đề thương mại để đạt được hiệp định song phương (đến nay vẫn còn xa vời). Làm thế nào để ông Trump coi Việt Nam là một đối trọng có tiềm năng trong khu vực để đối phó với Trung Quốc (“Vietnam and the United States Make Nice for Now but Disappointment Looms”, Joshua Kurlantzick (Senior Fellow, CFR, June 1, 2017).
Theo nhà báo Helen Clark, quan hệ cá nhân ở Việt Nam không quan trọng bằng quan hệ nhà nước về thương mại và chiến lược. Ông Phúc và ông Trump tuy bắt tay vui vẻ, nhưng hai con người này khác nhau hoàn toàn. Trong đối thoại, họ chỉ nói chuyện với nhau bằng những luận điểm được chuẩn bị kỹ (talking points). Vì Trump coi trọng quan hệ cá nhân, nên trong 30 phút hai nhà lãnh đạo làm thế nào để có tiếng nói chung? Cũng may, kết quả duy nhất làm Trump hài lòng là giao dịch trị giá $8 tỷ hàng hóa. (“Nothing personal: a lesson for Trump in Vietnamese politics”, Helen Clark, South China Morning Post, June 5, 2017).

Thay lời kết

Tuy các chuyên gia tư pháp của Nhà Trắng đang tính toán đề phòng khả năng Trump bị phế truất, nhưng khả năng này rất thấp. Điều đó có nghĩa là trong 3 năm rưỡi nữa, không chỉ người Mỹ mà cả thế giới phải chấp nhận Trump, một Tổng thống Mỹ khó tính và khó đoán. Không chỉ ông Phúc, mà cả ông Abe và ông Tập cũng phải lấy lòng Trump. Lúc này Hà Nội phải cố “đẩy tốt qua sông” như một nước cờ “hedging”. Sau khi đi Mỹ, ông Phúc đi thăm Nhật (4-8/6/2017). Tăng cường đối tác chiến lược với Nhật lúc này là đúng hướng.
Tuy các giao dịch ban đầu trị giá $8 tỷ là một “mâm xôi” làm cho “ông Trump” vui lòng vì có “thành quả” để khoe thành tích “America First”, nhưng chưa biết ông Trump sẽ vui được bao lâu. Bên cạnh “mâm xôi” thương mại, ván cờ chiến lược vẫn đang chuyển động theo hướng “đồng sàng dị mộng”, tuy cả hai bên đều không muốn làm mất lòng Bắc Kinh. Kết quả ban đầu của vận động hành lang có tác dụng, dù khó khăn. Ông Phúc không những được ông Trump “bắt tay chặt” và “chụp hình chung”, mà còn được “gói xôi” mang về. 

NQD. 6/6/2017

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire