Trúc Giang
(VNTB)
Người viết bài này
trước khi bước vào nghề báo, có một năm làm thầy giáo cấp 2 dạy các em học trò
khiếm thị trường Nguyễn Đình Chiểu, Sài Gòn. Xin được luận bàn về hai vị bộ
trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ, và bộ trưởng bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện quanh chủ đề ‘giáo dục – tiền’.
Quan chức nào thì
giáo dục nấy!
Tháng 6-2018, trả lời
chất vấn của đại biểu Quốc hội về chất lượng giáo dục đại học, Bộ trưởng Phùng
Xuân Nhạ cho rằng “đồng tiền đi liền chất lượng”, chất lượng thấp vì mức học
phí người học bỏ ra còn thấp so với thế giới.
Tháng 10-2018, trả
lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về trách nhiệm trước tình trạng đạo đức
xuống cấp, Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: “Sự xuống cấp đạo đức xã hội
xuất phát từ các ngành kinh tế!”.
Ý chung của cả hai vị
bộ trưởng là sở dĩ giáo dục bết bát, đạo đức suy đồi là vì nền kinh tế còn
nghèo nàn, eo hẹp tiền bạc.
Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ, và bộ trưởng bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện |
Thế nhưng khi xem xét
lại các Nghị quyết Trung ương 3, khoá VII năm 1993 của đảng cộng sản Việt Nam,
thì thấy có những câu văn khẳng định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Nghị
quyết Trung ương 8, (khoá XI) một lần nữa khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”.
[Nguồn: http://bit.ly/2AGAbP1]
Trong các báo cáo
thống kê công khai trước Quốc hội, lãnh vực giáo dục được ưu tiên đầu tư nguồn
lực lớn từ ngân sách nhà nước. Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của
Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP. Đây là mức được ghi nhận là rất
cao so với nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh
tế cao hơn Việt Nam rất nhiều. (Singapore 3,2%/GDP năm 2010, Malaysia 5,1%,
Thái Lan 3,8%, Hàn Quốc 5,2% năm 2011, Hồng Kông 3,5%).
Từ những số liệu nêu
trên cho thấy tiền không phải là nguyên cớ cho sự tuột dốc của giáo dục và đạo
đức. Lỗi chính ở đây là thuộc về Bộ Chính trị, nơi đưa ra các quyết định về
nhân sự cho bộ máy điều hành của chính phủ. Nói một cách khác, thì ‘quan chức
nào – giáo dục nấy’!
Thử nhìn lại một nền
giáo dục đã qua
Miền Nam trước tháng
4-1975, nói theo ngôn ngữ của tuyên giáo Hà Nội xã hội chủ nghĩa, là phải sống
trong sự kềm kẹp của Mỹ - Ngụy. Tuy nhiên nếu mang so sánh giáo dục thời gian
đó với hiện nay, cho thấy có những ưu điểm vượt trội không hề mang màu sắc của
đồng tiền như cách nhìn của hai vị bộ trưởng nói trên.
Miền Nam trước tháng
4-1975, học trò thi vào trường công từ lớp Đệ Thất và đi thẳng luôn lên Đệ
Nhất, không phải tốn công, tốn tiền thi chuyển cấp với đủ thứ nguyện vọng 1, 2,
3 cũng như ‘chạy’ trường. Đậu vào trường công thì hầu như không tốn tiền gì cả,
ngoài một số tiền nhỏ làm thẻ học sinh và học bạ đầu năm chỉ tương đương với 1
tô phở bình dân.
Đồng phục nam là quần
ka ki xanh và áo sơ mi trắng. Không chấp nhận loại vải nào khác. Nữ sinh thì áo
dài trắng. Sách học thì hầu như không thay đổi nhiều trong thời gian dài, nên
em thì tiếp tục dùng sách của anh chị, đỡ hao tiền phụ huynh.
Thật ra cũng khó so
sánh, vì bây giờ có nhiều tiến bộ về khoa học. Trước 1975, học trò chỉ có cây
viết và tập, sách chứ không gõ máy tính như bây giờ. Học trò những niên khóa
1975 trở về trước, nghĩ hè là đi chơi ‘mút mùa Lệ Thủy’ cả 3 tháng, khỏi họp
hành, học thêm. Khi nghĩ hè thì được thông báo trước ngày tựu trường cho niên
khóa mới. Cứ tới ngày đó là ôm cặp tới trường là đúng y chang.
Mặt bằng kiến thức
của học sinh thì đồng đều. Không có điểm ưu tiên, diện ưu tiên gì hết ráo.
Mặc dù tồn tại chỉ
trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những
bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách
quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành
cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7–7,5% cho giáo dục) nhưng
theo giáo sư Việt văn Nguyễn Thanh Liêm [1933 – 2016], cựu hiệu trưởng trường
Petrus Trương Vĩnh Ký - Sài Gòn, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, thì nền
giáo dục khi ấy đã phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng
của người dân, đào tạo được nhóm trí thức có học vấn và có khả năng chuyên môn
đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp ngay cả ở các quốc
gia phát triển.
“Kết quả này là nhờ
các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và
dành nhiều tâm huyết đóng góp cho nghề nghiệp, cũng như nhiều bậc phụ huynh đã
sắn sàng đóng góp tài chính cho việc xây dựng nền giáo dục, cùng những ý tưởng,
sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam”.
[Trích Nguyễn Thanh Liêm, “Giáo Dục ở Miền Nam Tự Do trước 1975” Đồng Nai Cửu
Long xuất bản, Santa Ana 2006].
Như vậy, tuy vẫn là
chuyện tiền, nhưng ở đây với các quan chức trong ngành giáo dục, đó không phải
điều kiện tiên quyết như cách nghĩ của bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ và bộ trưởng
Nguyễn Ngọc Thiện.
Nếu không phải vì
tiền, thì vì cái gì?
Xin trả lời luôn: vì
thiếu lá phiếu thực sự của cử tri công chúng. Với thể chế bầu cử tính từ mốc
tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 [tham khảo thêm tại http://bit.ly/2qp58Bl] cho đến nay, lá phiếu
cử tri chỉ mang tính ước lệ dân chủ, vì mọi đặt để nhân sự Quốc hội cho đến
Chính phủ đều thuộc cơ quan có tên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, gọi vắn tắt là Bộ Chính trị, với người đứng đầu là Tổng Bí
thư.
Lá phiếu ở cử tri
trong một nền giáo dục với ba nguyên tắc là “nhân bản - dân tộc - khai phóng”
như miền Nam trước đây vì sao lại có tầm quan trọng trong lựa chọn những ông,
bà nghị sĩ đại diện cho dân chúng?
Nhà báo Lê Văn Nghĩa
của báo Tuổi Trẻ, kể lại thời thanh niên của ông ở Sài Gòn khi xong tú tài, nếu
chọn các trường đại học như Văn Khoa, Luật, Khoa học thuộc Viện Đại học Sài
Gòn, chỉ cần thủ tục ghi danh. Vì vậy cũng có nhiều sinh viên Luật cũng là sinh
viên Văn Khoa, và ngược lại.
“Có lẽ vì Bộ Giáo dục
thời Việt Nam Cộng Hòa đánh giá Văn khoa là một phân khoa có tầm quan trọng đặc
biệt. Chính phân khoa này thể hiện được các sắc thái thuần túy dân tộc, soi
sáng được truyền thống dân tộc, mới duy trì và tiếp tục vun xới bồi đắp cho nền
văn hóa dân tộc được vững bền và ngày thêm phong phú. Chỉ ở văn khoa mới tìm
thấy được những gì thuần túy Việt Nam. Giúp bạn sống một cách nhân bản hơn, gắn
bó với quê hương nhiều hơn”. Nhà báo Lê Văn Nghĩa nhận xét.
Khi những lá phiếu cử
tri dân chúng từng là sinh viên Văn Khoa, sinh viên trường Luật thì ắt hẳn họ
sẽ không đời nào chấp nhận làm những con cừu ngoan ngoãn bầu chọn cho những ông
bà nghị kiểu như Phùng Xuân Nhạ, Nguyễn Ngọc Thiện, hay Nguyễn Thị Quyết Tâm, hoặc
Lê Thanh Hải...
Tinh thần quốc gia
phải là trên hết
“Hiến pháp là văn
kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”. Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có ý nhấn như vậy tại trao đổi với cử tri hai quận
Tây Hồ, Hoàn Kiếm ngày 28-9-2013 về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
[Nguồn: http://bit.ly/2yKMx7y]
Với cách nghĩ ‘phi
pháp luật’ của người đứng đầu Bộ Chính trị, tất yếu lúc ‘cơ cấu nhân sự’, thì
yếu tố ‘trung thành tuyệt đối’, ‘trung thành mù quáng’ với đảng cộng sản luôn
mang tính mặc định. Điều này còn thể hiện trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc trước đây, và trên cả nước từ sau tháng 4-1975. "Đảng và Nhà nước
lo" từng là câu cửa miệng quen thuộc.
Giáo dục ở miền Nam
những niên học 1975 trở về trước, như lời ca khúc “Học sinh hành khúc” của nhạc
sĩ Lê Thương: “Học sinh là mầm sống của ngày mai - Nung đúc tâm hồn để noi chí
lớn - Theo các thanh niên sống vì giống nòi - Liều thân vì nước, vì dân mà
thôi”, thì rõ ràng việc phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh được chú
trọng hàng đầu.
Điều này thực hiện
bằng cách chỉ dạy học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối
sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở
mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống
ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt
một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở,
những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân
tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị
của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire