Ở giới lãnh đạo Việt Nam, có một nghịch lý: một mặt, họ có vẻ chuộng bằng cấp, ai cũng có vẻ muốn có bằng cấp thật cao và tạo cơ hội cho các cán bộ dưới quyền có bằng cấp thật cao, kể cả bằng giả hoặc bằng dỏm; nhưng mặt khác, họ lại không che giấu được sự khinh bỉ cố hữu đối với trí thức.
Nói “cố hữu” vì nó gắn liền với bản chất giai cấp của đảng Cộng sản. Có lẽ không ai không biết câu ví trí thức với cục phân của Mao Trạch Đông tại cuộc hội nghị văn nghệ ở Diên An năm 1943. Mấy năm sau, câu nói ấy được du nhập vào Việt Nam và được giới văn nghệ sĩ, trí thức học tập ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhà văn Nguyễn Thành Long kể:
“Khi đọc tài liệu Văn nghệ Diên An của Mao Trạch Đông, tôi còn nhớ nguyên văn một câu gây ấn tượng dai dẳng trong tôi: ‘Trí thức là cục phân’. Chúng tôi phải tin theo điều này và tự phủ nhận bản thân mình.” (Phong Lê (chủ biên) (1995), Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học 1945-1854, Hà Nội: nxb Khoa học xã hội, tr. 527)
Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945, đặc biệt, từ 1954 về sau, người ta có thể dễ dàng tìm thấy vô số bằng chứng về chính sách đối xử tàn tệ đối với giới trí thức, kể cả những trí thức được coi là cực kỳ xuất sắc, là những niềm tự hào hiếm hoi mà dân tộc Việt Nam có được. Thì cứ nhìn lại cuộc đời của Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), Trần Đức Thảo (1917-1993), Đào Duy Anh (1904-1988) và Trương Tửu (1913-1999) mà xem. Có thể nói họ là bốn đỉnh cao trong lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn trước cách mạng tháng Tám.
Người đầu tiên nổi tiếng là học giỏi (22 tuổi có hai bằng tiến sĩ ở Pháp) và là luật sư giỏi; người thứ hai được xem là triết gia duy nhất có tầm vóc quốc tế của Việt Nam cho đến thời điểm này; người thứ ba, bằng con đường tự học, trở thành một dịch giả, một sử gia, một nhà từ điển học và văn hoá học lừng lẫy; còn người cuối cùng là một nhà phê bình và lý thuyết văn học vừa uyên bác vừa tài hoa. Vậy mà, suốt mấy chục năm, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả đều bị hắt hủi, thậm chí, dập vùi một cách vô cùng tàn bạo. Họ không những đói, khổ mà còn bị nghi ngờ và khinh bỉ. Công việc duy nhất mà một vài người trong họ có thể làm được là dịch thuật. Nhiều khi dịch mà vẫn không được phép ghi tên trên tác phẩm mình dịch.
Tất cả chỉ được khen ngợi sau khi… chết.
Khi khen ngợi, người ta cũng tảng lờ đi những năm tháng họ bị ruồng rẫy.
Và người ta cũng tảng lờ đi là, cho đến sau này, nhiều tài năng khác, hay trí thức nói chung, vẫn tiếp tục bị khinh rẻ.
May, không phải ai cũng tự lừa mình hay lừa người khác như vậy.
Đã có nhiều người lên tiếng. Trước, lên tiếng ở những chỗ riêng tư. Sau, dần dần, họ lên tiếng một cách công khai.
Người lên tiếng nhiều và cay đắng nhất có lẽ là nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh. Ông nói đi nói lại nhiều lần. Một lần, trong bài viết “Phê bình văn học trong trong tình hình mới” đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) số ra ngày 29-8-1987, ông viết: “Người ta thích nói một cách chung chung, nền văn học của ta đã trưởng thành, văn nghệ sĩ của ta là những chiến sĩ, những anh hùng, nhưng đối với văn nghệ sĩ thì coi như con nít”. Lần khác, trong một cuộc hội thảo bàn tròn do báo Văn Nghệ tổ chức cũng được tường thuật trên số báo vừa dẫn, ông lại nói: “Nhà văn cũng bị coi là con nít: sợ họ hư nên người ta thích bật đèn đỏ, đèn vàng, chứ ít khi bật đèn xanh cho văn nghệ phát triển.” Lần khác nữa, trong buổi họp mặt giữa Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng bí thư đảng, với khoảng 100 văn nghệ sĩ Hà Nội, vào tháng 10 năm 1987, Nguyễn Đăng Mạnh phát biểu: “Lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ.”
Sau này trong cuốn Hồi ký được phổ biến rộng rãi trên internet, Nguyễn Đăng Mạnh lại lặp lại ý kiến ấy khi nói đến sự kiện một số cán bộ lãnh đạo sử dụng một số cây bút đàn em để đánh phá những văn nghệ sĩ và học giả mà họ không thích:
“Trình độ văn hoá, trình độ nhận thức thấp tất đẻ ra lối lãnh đạo văn hoá một cách thô bạo. Chẳng hiểu gì cả mà dám can thiệp sâu vào chuyên môn […]. Và họ khinh bỉ trí thức đến thế là cùng: không mời tôi và bất cứ một nhà nghiên cứu văn học nào đến để tham khảo ý kiến.”
Liên quan đến chuyện khinh bỉ giới trí thức, những lời kể của Vũ Thư Hiên trong cuốn “Đêm giữa ban ngày” về Đinh Đức Thiện, em ruột của Lê Đức Thọ, khá thú vị:
“Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ những chức vụ rất quan trọng – bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên – Hà Nội. Họ tính kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền nổi khùng: ‘Rặt một lũ ăn hại đái nát! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính như con c… Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả trí ngủ!’ Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.
[…]
“Có một thời sự thiếu học được coi là niềm tự hào – người ít học là người có quá khứ trong sạch, không dính với thực dân, phong kiến. Ðinh Ðức Thiện tự hào về sự thiếu học của mình lắm. Ông vỗ ngực đồm độp: ‘Xem tao đây này, tao chẳng có cái bằng chó nào hết, thế mà tiến sĩ kỹ sư sợ tao một phép. Chúng nó ỷ có học, nhưng học gì lũ chúng nó, học vẹt ấy thì có, rời sách vở ra là chịu chết. Trí thức mà không có thực tế chỉ là cục c… Chính tao này, tao chỉ đạo kỹ thuật cho chúng nó, chứ ai? Nghe cái bọn quen bơ thừa sữa cặn ấy chỉ có mà ăn cháo, ăn cháo!’’
Đọc xong câu chuyện ấy, tự dưng tôi nhớ đến câu chuyện do Huỳnh Thúc Kháng kể trong cuốn “Thi tù tùng thoại”: Khi bị giam ngoài Côn Đảo, ông và một số người khác – toàn là dân khoa bảng chống Pháp – bị bắt đi đập đá. Thấy mọi người làm việc vụng về, tên cai ngục, vốn là một đứa vô học, cầm roi gõ vào đầu từng người hỏi: “Mày làm gì?” Người kia đáp: “Dạ, Cử nhân.” Hắn quất cho một roi, rồi nói: “Cử nhân nè!” Hỏi người khác: “Mày làm gì?” Đáp: “Dạ, Tiến sĩ” Hắn quất cho một roi và nói: “Tiến sĩ nè!”
Cứ thế, hết người này đến người khác.
Đau xót, Huỳnh Thúc Kháng làm bài thơ:
Tấn sĩ nhỉ hà vật
Ngôn ngữ thái ngạo mạn
Tặng nhỉ nhứt trường tiên
Sử tri ngã thủ đoạn
Ông tự dịch:
Tiến sĩ là cái gì
Ăn nói rất vô lễ
Cho mày một ngọn roi
Mày biết tay tao nhé!
Đọc, cứ tưởng như chuyện hài hước.
Vậy mà chúng có thực. Có thực, thời Pháp thuộc. Có thực, thời cách mạng. Và không chừng cũng có thực, cả đến tận bây giờ nữa.
Nguyễn Hưng QuốcNgày 26-11-2021
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire