Lê Hiếu Đằng
Lời dẫn của Nguyễn Huệ Chi: Thời gian vừa qua, có dịp vào Sài Gòn, được tin ông Lê Hiếu Đằng phải cấp cứu ở BV Bình dân, tôi và bạn bè đã đến thăm ông. Chúng tôi nhìn nhau khôn xiết bồi hồi. Sờ bàn chân ông thấy có hiện tượng phù nhẹ, nhưng trông khuôn mặt thì vẫn rất linh lợi, nhất là ánh mắt sáng láng, vẫn ngời lên cái khát vọng tha thiết về tương lai dân chủ hóa cho đất nước. Vài ngày sau tôi nhận được điện của ông, giọng rõ từng tiếng: “Thưa anh HC, tôi đã ra viện, đã trở về với đội ngũ. Sẽ sớm có bài viết tính sổ đời mình gửi đến anh”. Bồi hồi sung sướng, tôi vâng lên một tiếng thật to ở đầu dây bên này, và từ đó cứ chờ đợi bài ông.
Thì hôm nay, bỗng nhận được bài viết dưới đây trong e-mail với lời gửi gắm kèm thêm nói qua điện thoại: “Anh sửa chính tả thật kỹ giúp tôi, bởi đối với một người vừa qua cơn bệnh hiểm nghèo có thể viết còn nhiều lỗi. Nhưng toàn bộ những ý tưởng trong bài là của tôi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Tôi xin vâng theo lời ông. Chợt nhớ tới câu châm ngôn mà chính nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã từng nhắc: “Nhân chi tương tử kỳ ngôn dã thiện”. Người bạn của tôi trong những ngày vừa qua cũng coi như đã một lần xáp mặt với cái chết và may mắn giải thoát khỏi nó, nên những lời ông nói ra là tất cả những gì tâm huyết ông muốn gửi gắm cho đồng bạn và cho lớp trẻ đang tiếp bước mình. Những lời vừa có tính chất ôn lại chuyện cũ để chiêm nghiệm sự đời cho sâu chín hơn, đồng thời cũng là sự kết đọng trong nó một lời tuyên ngôn chắc nịch về con đường nhất thiết phải đi để đưa dân tộc thoát khỏi số phận một chàng Sisyphe suốt đời phải đẩy khối đá khổng lồ chồng trên lưng mình như một định mệnh – mà một thời vẫn cứ mê muội ngỡ đó là trách nhiệm và vinh quang do lịch sử giao phó “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” – nhưng ở thời điểm hiện tại thì sự quá tải trên mọi phương diện của một cái ách cực kỳ phi lý hầu như bất kỳ ai cũng cảm nhận được rõ ràng. Và câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước cùng nhân loại văn minh.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.Nguyễn Huệ Chi
Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi phải “thanh toán”, “tính sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanma (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một xã hội không có bóng người. Chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanma của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một bên thì khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi mở, vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.
Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một điều: con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm nhất là hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Thật sự là Miền Nam đã giải phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế, văn hóa, tư tưởng… Vì những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?
Vào thế kỷ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí thức, văn nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieux, Voltaire, Jean Jacquess Rousseaux, v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ, v.v. hay những tri thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà đi vào chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao, nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân trước Ba Đình lịch sử.
Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao động, những người hy sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường.
Tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc Sơn (bí danh của tôi lúc đó), đ/c từ nay là Đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng (thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Hoàng Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đồng Thi Hiền còn trai trẻ trước 1945 nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?
Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”.
Về anh Nguyễn Ngọc Phương – người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hy sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao mình không thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả quy luật tự nhiên, cop-py mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu và đã hy sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban tuyên huấn T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt chồng con. Có thể nói tất cả điều đó là tội ác của Đảng và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được.
Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là quy luật tất yếu vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được và như vậy điều 4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức này: các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay Campuchia đã làm.
Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các Giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v. Các nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình để dấn thân vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ mà hiện nay đã bị phản bội, chà đạp những lời hứa năm nào trong kháng chiến. Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogger, những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác.
Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán.
Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này? Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này, mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3. Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc
- Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học.
Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong ngư trường truyền thống của mình hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta. Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn càng không dám thực hiện những việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối chứ không chỉ là đưa công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên kết với các nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông.
Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kỳ kháng chiến hoặc trước 1975 ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn đề về con người.
+ Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo.
Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.
+ Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ. Đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mil thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy anh Nguyễn Khải đã nhìn lại những gì mà anh đã trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa.
Các vị lãnh đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có thời kỳ nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa, Ngày nay… với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo… Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức với những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như những đóa hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm đắt tay tôi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần này bỗng nhiên thấy lạ vì hôm nay tôi đi học”. Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra hồn.
Cũng may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…”, thế mà bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông buồn bực và tiếp tục uống rượu. Chỉ có một điều an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông.
Vấn đề là ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.
Ngay trong lĩnh vực báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1865 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi.
Tại Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,... đã gây chấn động trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Có lẽ là những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh trong cải cách ruộng đất đã bị chôn sống để trâu bò bừa lên đầu, lên cổ cho đến chết. Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên Thế nuôi heo để kiếm sống. Nguyễn Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp Thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quý để sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường trực MTTQ TP HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng về ông.
Tôi còn có những kỷ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP HCM và là đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ ĐCS VN ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân TP, nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+ Tôi là Trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5. Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài thẩm định khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kỳ họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước HĐND. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị Phó CT nào dự, kể cả phó CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là CT HĐND, cho các thư ký, trợ lý điện gấp cho các Phó CT, nhất là các Phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác. Những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi thấy các Phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kỳ họp nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường HĐND đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+ Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch UBND TP Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng, còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên TVTU, Phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy viên TVTU, Phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP. Tôi cương quyết đề nghị có Nghị quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP. Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của anh.
Lúc đó tôi với tư cách đại biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường TP để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban Tuyên huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó bí thư thường trực của TƯ. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh trên giấy Bãi Bằng là giấy chỉ do Cộng sản sau 1975 sản xuất. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Q.6 như cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng CSVN, để mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lung đoạn nhà nước.
Tôi không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đãng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Tôi quan niệm rằng làm nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng thực hiện những lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên, đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài viết nầy cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn TNSVHS mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người VN khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống còn của đất nước nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây. Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi thôi…
Viết trong những ngày nằm bịnh.
L.H.Đ.
-Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó CT Ủy ban MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009)
-Đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5
Theo BVN
Một sáng kiến hay của Ông Lê Hiếu Đằng về việc tự lập Đảng mới. Nhưng, họ sẽ quy kết Ông vào tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền" như đã từng đối với Ông Lê Công Định.
RépondreSupprimerMột bài viết tuyệt vời mà có lẻ từ rất lâu người dân đả mong đợi ! nó đả nói lên khát vọng cháy bỏng hừng hực trong trái tim của nhửng con người VN đang canh cánh vì vận mệnh của đất nước /nó giống như khi ông Hồ đọc được nhửng bài viết về cncs đả phải bật lên con đường cứu quốc cứu dân tộc là đây và bài viết của anh Đằng hôm nay tôi như mở cả tấm lòng ,nó nhức nhói ,âm ỉ ,trong tôi hơn 13 năm nay từ khi tôi quyết định bỏ sinh hoạt đảng hay nói khác đi ra khỏi đảng 1 cách lặng lẻ vì thiên hạ chửi rủa cả ngày ! nhửng ông hoàng bà chúa ,nhửng công thần giải phóng dân tộc ngày xưa lại biến thành nhửng tên độc tài ,độc tôn ,quan liêu cực kỳ ,nhửng thái tử công chúa đảng nhửng nhóm lợi ích đang làm băng hoại xả hội VN /không chỉ ngoài xả hôi mà tất cả các nghành từ văn hóa /giáo dục /y tế /sự mục nát còn thua cả thời lỳ đen tối nhất miền nam khi chưa giải phóng /nhất định nhân dân sẻ ủng hộ lời kêu gọi của các anh /chúc anh mau lành bệnh /
RépondreSupprimerTÔI CHỈ SUY NGHỈ 1 VIỆC NHỎ NHẤT /1 CHẾ ĐỘ TÔN TRỌNG HIỀN TÀI MÀ 1 HỌC SINH TRONG GIAN KHỔ NHẤT ĐẬU THỦ KHOA MÀ PHẢI ĐI NVQS /TRONG KHI CẢ XẢ CÓ HƠN 900 NGƯỜI ĐỦ TIÊU CHUẨN TRONG KHI CHỈ TIÊU CHỈ LẤY CÓ 50-70 NGƯỜI /BAO NHIÊU CON ÔNG CHÁU CHA CỦA ĐẢNG ĐANG HỌC Ở TÂY ,Ở MỶ /CÓ CON ÔNG NÀO TRONG BỘ CT VÀ TW ĐANG THI HÀNH NVQS /CÔNG BẰNG XẢ HỘI LÀ NHƯ THẾ Ư /TẠI SAO BAO NHIÊU THANH NIÊN LÊU LỎNG ĂN CHƠI KHÔNG ĐƯA ĐI ĐỂ RÈN LUYỆN MÀ ĐƯA NHỬNG HỌC SINH ƯU TÚ NHỨ THẾ ĐI NVQS /BẤT CÔNG THỚI NÁT NGU XUẨN MỊ DÂN
Tôi xin gọi bằng bác, bác Đằng vì tôi là kẻ hậu sinh (sinh trưởng tại miền nam -1956)- tôi có chút nhẹ lòng khi biết thêm tâm tình của một trong những người đi trước, với thời cuộc. Họ thực sự nặng lòng vì hai từ "dân tộc" "tổ quốc", tất nhiên ở góc độ nào đó cũng có người đối kháng - CS lẫn không CS! Như vậy, những người như bác ở giữa ngã 3, nhưng 3 hay 4 không quan trọng, cái chính là phải làm theo tiếng nói của con tim, lương tâm của mình, rõ là sau 1975, không ai nghĩ VN sẽ ra như hôm nay, kẻ hậu sinh suy nghĩ về bác và những người như bác là thế, hi vọng bác sẽ đồng ý Trong bài tóm tắt ngắn ngủi trên, tôi nghĩ chưa nói đủ tất cả những điều bác và thế hệ mình cần nói song tôi cũng nghĩ bác cũng chưa phải đã là "đoạn tuyệt" như Nhất Linh, tại sai phải trấn an rằng chính thể CS còn kéo dài giữa lòng dân tộc? Đã quá trễ rồi bác Đằng ạ! phải chăng đó chính là gốc rễ của sự thất bại mà bác phải viết ra những lời khẳng khái nửa vời kia? Hôm nay, trên BBC có 2 tin: 1/ Phụ nữ VN là món hàng rẻ cho đàn ông tàu và 2/ Một phụ nữ VN bị bắt ở Sing vì buôn thuốc phiện, tội liên tưởng rằng sự sai trái của đám thất phu VN đã đổ dồn lên vai phụ nữ (và trẻ em) VN, không có chuyện thê thảm nào trong XH này, từ trong ra ngoài nước mà không liên quan nhiều phụ nữ VN như trong chế độ này, chắc "những người phụ nữ của bác" cũng không phải là hạnh phúc khi nghĩ rằng đến cuối cuộc đợi bác phải trãi lòng như thế, bác đã thất bại và có lý do từ chính mình. Dẫu vậy, thật lòng mong bác nhiều sức khỏe để con tàu dân chủ có thêm tay chèo!
RépondreSupprimerông Lê Hiếu Đằng xin ông giử gìn sức khỏe VN đang cần những người như ông. Xin cám ơn ông đã nói lên sự thật mà nhiều người không dám nói. Hy vọng một ngày nào đó người trí thức trong nước sẽ không làm ông thất vọng.
RépondreSupprimerNTLT
Ở trong chăn mới biết chăn có rận, chú Đằng sau hơn 45 năm trong chăn đã biết và thấy rận to, nhỏ, bẩn thĩu và nguy hiểm như thế nào. Ở tuổi chú, sức khỏe như vầy thì đừng vu khống chú là chú ham hố điều gì, chú chỉ nói, chỉ làm những gì chú cho là tốt nhất cho đất nước cho nhân dân.
RépondreSupprimerKính trọng chú. Kính chúc chú khỏe mạnh, sống lâu và tiếp tục "chiến đấu" vì tương lai đất nước.
"Trăng Mờ Bên Suối". Bài hát này do Tác giả: Lê Mộng Nguyên sáng tác.
RépondreSupprimerCuối năm 2000 (28-12-2000) tại Paris Giáo Sư--Nhạc sĩ Lê Mông Nguyên đã đánh đàn gita và hát bài này... NS Lê Mông Nguyên người Huế.
RépondreSupprimerLe Hieu Dang rat can dam. Rat cam phuc ong. Mong co nhieu LHD nua de lam ngon gio doi thay cho VN. Gop gio thanh bao.
Thanh that xin loi vi dang o Pulic library nen khong co the bo dau tieng Viet.
Công bình mà nói thì nên hoan hô những lời chân
RépondreSupprimerthành có ý sám hối của một người từng mê muội với chủ nghĩa CS.như ông Lê H.Đằng.
Như tôi có lần góp ý là chủ nghĩa Cs.là chất ma
túy cực độc và cực mạnh của thời đại lúc bấy giờ
khiến hầu như đa số trí thức trên thế giới bị
đầu độc mà họ không biết vì vị thuốc ngọt hơn cả mật !
Đáng buồn trách họ,những trí thức 'tháp ngà'tây phương là đã lôi cuốn cả giới trẻ và trí thức
'nửa mùa'VN.lao vào đấu tranh cho một xã hội
công bằng vô giai cấp chỉ có trên lý thuyết mà
nay họ mới thấy qua thực tế bất công hơn nhiều
lần và cũng tàn ác hơn nhiều lần chế độ cũ như
Lê H.Đằng đã thú thực ông bị tù mà vẫn được ra
ngoài để thi cử (đó chỉ là môt ví dụ nhỏ).
Tôi chỉ tí thắc mắc là LHĐ.đã nhắc sửa lỗi cho bài viết của ông nhưng vẫn còn có nhiều lỗi về tên người như có bác đã chỉ ra.(Ngoài ra,bản nhạc "Trăng mờ bên suối" không phải của Hoàng Nguyên mà là của Lê Mộng Nguyên).
...Bài viết trong những ngày thập tử nhất sinh tại bệnh viện của vị luật gia nguyên là Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, lại mang đầy chất lửa, đầy tính chiến đấu. Đặc biệt ông đã mạnh dạn đặt vấn đề thành lập các đảng đối lập, chẳng hạn một đảng dân chủ xã hội, thay vì đảng Cộng sản độc quyền như hiện nay. Ông thách thức bất kỳ lãnh đạo nào trong bộ máy của đảng Cộng sản trả lời ông một cách công khai về vấn đề trên.
RépondreSupprimerRFI Việt ngữ đã trao đổi với luật gia Lê Hiếu Đằng: (có ghi âm)
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130812-luat-gia-le-hieu-dang-can-cho-lap-them-cac-dang-doi-lap-voi-dang-cong-san-tai-viet
Ông Đằng viết:"Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế." Cái khéo léo của ông Thủ tướng sao giống cái khéo léo của ông nào đó quá vậy, thì ra học chung một sách. Thay vì nói tên vị có vấn đề thì "khéo léo" goi vị ấy là đồng chí X". Hai người cùng "sợ" như nhau. Và đã không dám nói tên ra thì không thể xem đó là một cú đấm "đích đáng" được. Ông Đằng còn tâm đắc với Ô HĐ Nguyên về việc hoan hô ông TT 5 lần. Cả hai ông đều quá lạc quan về lòng yêu nước của Đ/c X đấy.
RépondreSupprimerToi mong la cac vi nhan si tri thuc, nhung nha van, nha bao, nhung ai dang con la dang vien DCS hay lam theo loi keu goi cua bac Dang. Hay dung cam dong thanh tuyen bo tu bo DCS.
RépondreSupprimerMột bài viết của một người 45 tuổi đảng, hiểu rõ từng chân tơ kẻ tóc của tổ chức này. Những người như ông Lê Hiếu Đằng thật đáng trân trọng và là nhân tố tích cực cho phong trào dân chủ. Những đảng viên cộng sản khâc vẫn còn ảo tưởng hoặc cố tình ảo tưởng vì quyền lợi của mình hãy biết suy nghĩ và học tập bác Đằng. Tiếc là những người nhu bác Đằng giờ cũng cao tuổi, sức lực không còn nhiều
RépondreSupprimerKiều đã làm 1 cuộc tính sổ ngoạn mục khi ngồi bên cạnh Từ Hải !
RépondreSupprimerĐời sống thì ngắn mà ân tình mắc nợ nhiều ! Tôi rất nôn nóng nhìn được sổ nợ của ông ! Tôi nghỉ trong đó có những con số chi chít ! ông làm ơn thanh toán giùm món nợ khổng lồ nầy mà cái đảng khốn nạn nầy đã tạo ra ! Hy vọng câu chuyện sẽ rất hấp dẫn !
Một bài văn chính luận hoàn chỉnh có thể đưa vào sách giáo khoa cho học sinh thời kỳ hậu cọng sản. Tâm tư của bác Đằng dằn vặt, ăn năn hối hận... và khi trong tình trạng " Con chim sắp chết tiếng hót bi ai/ Người thường sắp chết nói lời nói phải " bác đã trải lòng sau khi linh hồn sắp phiêu bạt vào cỏi hư không !? Bác Đằng chẳng còn gì để sợ, chẳng còn gì để mất! Hãy cùng với đồng bào mình làm hồi sinh đất nước. Xin đa tạ !
RépondreSupprimerXin được tiếp thêm ngọn gió mùa Thu!
LỜI SÁM HỐI CUỐI CÙNG.
Xin lạy mẹ trăm nghìn lần lạy mẹ
Lòng ăn năn cầu xin mẹ thứ tha
Con xin cha linh hiển ở trên trời
Con vái lạy tổ tiên Người chứng giám
Đã có lúc con sai lầm nghiêm trọng
Quên tình thâm quên đạo nghĩa càn khôn
Quên non sông quên dòng giống Lạc Hồng
Quên đất nước bốn nghìn năm văn hiến
Đầu lú lẫn con đam mê quyền lực
Bán linh hồn cho quỷ dữ Sa tăng
Con muốn đi lên thế giới đại đồng
Hạnh phúc trần gian thiên đàng cọng sản
Là đấu tranh chém giết hận thù
Tiêu diệt hết không còn người bóc lột
Dù đói nghèo, gian khổ phải như nhau
Đời cùng khổ hát bài ca cách mạng
Các mác Lê nin đưa lối dẫn đường
Con dại ngây xem đây là lý tưởng...
Nhớ thủa đệ huynh chung lưng đấu cật
Cùng căm thù nuôi chí lớn đánh Tây.
Nhưng từ đây con đã phạm sai lầm
Giờ nghĩ lại con vô cùng hối hận
Nga Tàu Tây Mỹ cục diện hai phe
Ảnh hưởng tranh giành đất bằng dậy sóng
Tứ phương lưu lạc huynh đệ tương tàn
Quên nghĩa đồng bào Bắc Nam cách trở
Tôn thờ lý tưởng chủ nghĩa Mác - Lê
Con đặt lên trên: Hận thù giai cấp
Bài phong - đả thực báng bổ thánh thần
Miệt thị tổ tiên Vương triều họ Nguyễn
Chúa Phật nhà thờ chùa chiền đình miếu
Chỉ là tàn dư phong kiến thực dân
Phân hóa thành phần giàu sang là tội
Bần nông cốt cán trí thức rác rơm
Đấu tố thanh trừng tịch thu tài sản
Chồng vợ cha con thân bằng quyến thuộc
Vu oan giá họa tố cáo lẫn nhau
Căm thù giai cấp thay dạ đổi lòng
Người đã thi ân hôm nay báo oán
Đảo lộn cương thường tan gia bại sản
Miền nam đau xót miền Bắc khóc than
Rời bỏ quê nhà di cư tị nạn
Say men chiến thắng đàn áp khắp nơi
Trung cọng hà hơi Liên xô giúp sức
Đem quân xâm lấn quyết chiếm miền nam
Núp dưới chiêu bài đoàn quân giải phóng
Giá trả quá đắt hàng triệu sinh linh
Cốt nhục tương tàn hai miền Nam Bắc
Ba mươi tháng tư kẻ cười người khóc
Đã thống nhất rồi sao lại chia ly?
Bởi thiếu nghĩ suy con đã hồ đồ
Sô-xi- en - lic* trên đà thắng lợi
Tập trung cải tạo trút hận trả thù
Ngụy quyền ngụy quân công thương trí thức
Tịch thu tài sản nhà cửa ruộng vườn
Đày ải lên rừng khu kinh tế mới
Cải tạo công thương làm ăn tập thể
Miền nam phút chốc bọt biển trắng tay
Nghèo khó tang thương khác nào miền Bắc
Ngăn sông cấm chợ tự sản tự tiêu
"Buộc bụng thắt lưng" thiên đường cọng sản
Anh em gạt lệ vượt biển ra đi
Rời bỏ ruộng vườn quê cha đất tổ
Bảo tố nghìn trùng vẫn hơn địa ngục
Trời cao có mắt còn bảy mất ba
Đau đáu quê nhà mong ngày hội ngộ
Lịch sử sang trang mối thù truyền kiếp
Biên giới tây nam chìm trong biển lửa
Sáu tỉnh phía bắc giới tuyến địa đầu
Thịt nát xương tan quân Tàu xâm lược
Một phần lãnh thổ con để mất đi
Hoàng sa Trường sa Khẩu quan hữu nghị
Tội lỗi con mang hơn Lê Chiêu Thống
Chừng nào rửa sạch nỗi nhục oan gia ?
Đồng chí một nhà hôm nay trở mặt
Thù này quyết trả Sông cạn núi mòn
Kính cáo tổ tiên con xin nhận tội !
tiếp
Kính cáo tổ tiên con xin nhận tội
RépondreSupprimerƠn trời vận nước hồng phúc quốc gia
Thoát vòng kim cô Liên xô sụp đổ
Cong sản chủ nghĩa học thuyết mơ hồ
Lợi dụng mị dân ươm mầm tai họa
Đấu tranh giai cấp thế giới đại đồng ?
Người bóc lột người nhân dân làm chủ ?
Chế độ ưu việt nhà nước của dân ?
Tư bản xấu xa đang đà giãy chết
Thú thật mẹ cha không sao lý giải
Thời kỳ hôi nhập kinh tế thị trường
Dân thoát cảnh nghèo tương lai tươi sáng
Con chưa muốn nói tư bản hình thành
Một chút băn khoăn con xin bày tỏ
Vẫn còn đảng trị chế độ độc tài
Phải trái chẳng nghe ai đâu dám nói
Tự do hạn chế dân chủ nữa vời
Loại bỏ nhân tài vì do lí lịch
Đảng viên dưa thế lợi dụng chức quyền
Móc ngoặc tham ô làm giàu bất chính
Dân tình rên xiết lập hội dân oan
Phật giáo Tin Lành Cao Đài Hòa Hảo
Tự do tín ngưỡng Công giáo một lần
Dân chúng hoan nghênh một lòng ủng hộ
Những điều con nói là cả tấm lòng
Của đứa con hư thành tâm hối lỗi
"Chim kia sắp chết tiếng hót bi ai
Người thường sắp chết nói lời nói phải"
Chiều dài lịch sử gần bốn nghìn năm
Tam ba tuổi đời quả là ngắn ngủi
Con xin cha mẹ huynh đệ đồng bào
Ba mươi-Bốn lăm-Năm mươi công trạng
Đánh Tây đuổi Nhật sử sách rạng ngời
Nă tư-Bảy lăm phần sai con chịu
Hàng triệu sinh linh con em nước Việt
Cong sản quốc gia tang của cả nhà
Xin đừng phân biệt đau lòng mẹ cha
Bảy lăm-Tám sáu tội lỗi là con
Rừng sâu nước độc đại dương chôn vùi
Hàng nghìn thân xác đêm dài đau thương
Sau giấc ngủ vùi giật minh tỉnh mộng
Nhìn lại chung quanh ánh sáng mặt trời
Vừng đông ló dạng mây mù xua tan
Bóng ma cọng sản tự đào mồ chôn
Càn khôn lặp lại thái lai đến hồi
Giờ con đến lúc nói hồi cáo chung
Nội bộ đảng viên đang đà phân hóa
Tư tưởng giao động chờ đợi thời cơ
Điều bốn hiến pháp loại bỏ bây giờ
Độc đảng không còn chính trường mở rộng
Gương thần soi rọi đa đảng đa nguyên
Để đảng cầm quyền tân trung báo quốc
Con xin tuyên bố cọng sản Việt Nam
Khủng hoảng đường lối học thuyết vu vơ
Thực tiễn chứng minh cơ đồ sụp đổ
Con nhận sai lầm vai trò lịch sử
Nền tảng học thuyết bạo lực độc tài
Gieo rắc tang thương gieo mầm thù hận
Nhân dân oán thán kinh động đất trời
Nay tận số rồi từ đây chấm dức
Búa liềm rơi rụng bầu trời quang mây
Anh em đồng chí nhất quyết một lòng
Thành khẩn ăn năn thành tâm sám hối
Con lạy cha mẹ xin lỗi đồng bào
Mở lượng hài hà khoan dung tha thứ.
2013
Mùa VU LAN