04/01/2019

VIỆT NAM LÀM GÌ TRƯỚC CUỘC SO GĂNG TRUNG-MỸ(PHƯƠNG TÂY)?







BẢN CHẤT CUỘC SO GĂNG


Không giống như sự nổi lên của Nhật Bản thập niên 70s-80s biến nước này thành một hội viên được đón chào của câu lạc bộ phương Tây, sự trỗi dậy của Trung Quốc mang dáng dấp của Nga Sô sau Thế Chiến II ở chỗ đều thách thức trật tự quốc tế hiện hành do phương Tây kiểm soát với sự tự tin rằng họ đang vận hành một mô hình phát triển ưu việt hơn.

Những thành tựu phát triển của Nga Sô thời bấy giờ và của Trung Quốc hiện nay quả nhiên có thể biện minh cách tiếp cận này của họ. Hơn thế nữa, trở thành siêu cường khi mà phương Tây đã bao vây khắp mọi nơi, không có nhiều lựa chọn cho Nga Sô và Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh sinh tồn này ngoài việc phải xô đổ trật tự cũ. Nếu Nga Sô phải phá vòng vây bằng cách hỗ trợ các dân tộc thuộc địa vùng lên chống thực dân phương Tây và sau đó tham gia vào hệ thống XHCN do họ dẫn dắt, thì Trung Quốc đang tổng hợp những nỗ lực tương tự của mình trong Sáng kiến Vành đai Con đường đầy tham vọng nhằm chia lại vùng ảnh hưởng toàn cầu.


Như vậy, cũng như Nga Sô trước đây, cuộc so găng của Trung Quốc với phương Tây không chỉ bó hẹp trong một lãnh vực cụ thể mà thực chất là sự cạnh tranh chiến lược giữa hai mô hình phát triển: Về kinh tế, một bên nhấn mạnh vai trò quyết định của nhà nước, bên kia coi trọng sáng kiến tư nhân; về chính trị, một bên tăng cường độc đoán cưỡng bách đảng trị, bên kia dựa vào dân chủ tự do pháp trị. Bản chất mô hình phát triển dựa vào nhà nước là không khác nhưng Trung Quốc hơn Nga Sô ở chỗ tận dụng thành công bối cảnh toàn cầu hoá để học hỏi phương Tây bổ sung các yếu tố thị trường vào nền kinh tế; và cũng vì thế mà kém Nga Sô ở chỗ chưa thể xây dựng một hệ thống toàn cầu theo mô hình của mình bởi lẽ chính Trung Quốc cũng chưa đủ thời gian để hệ thống hoá chặt chẽ một mô hình mà họ chỉ mới mày mò nhờ ‘dò đá qua sông’. Nghĩa là hơn Nga Sô về chiến thuật nhưng kém về chiến lược vậy.


ĐẤU TRƯỜNG CHÍNH CỦA CUỘC SO GĂNG

Lenin từng nói một câu mà hậu bối của ông ít khi muốn nhớ, rằng xét đến cùng chủ nghĩa xã hội nếu muốn thắng chủ nghĩa tư bản sẽ phải thắng về năng suất lao động [1]. Cuộc đối đầu giữa các mô hình phát triển cuối cùng cũng nằm ở chỗ mô hình nào tạo ra năng suất lao động cao hơn.

Đó là lý do vì sao người ta đang dần nhận ra cuộc chiến Mỹ-Trung hiện nay chính yếu không phải về thương mại, mà là về công nghệ [2] - yếu tố quan trọng bậc nhất để tăng năng suất. Điều này cũng giải thích vì sao hai nước vừa tuyên bố đình chiến thương mại tạm thời nhưng ngay sau đó con gái chủ tịch Huawei - tập đoàn chủ đạo trong tham vọng cường quốc công nghệ của Trung Quốc - vẫn bị bắt.

Trung Quốc hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của vấn đề này khi mà sự phát triển vượt bậc vài thập kỷ qua của họ không dựa vào công nghệ phát triển tự thân. Phương Tây sáng tạo công nghệ, Trung Quốc sao chép và tận dụng lợi thế quy mô (economies of scale) không thể so bì của mình để tăng năng suất, giảm giá thành rồi tranh thủ bối cảnh toàn cầu hóa để vươn lên thành thế lực sản xuất hùng mạnh bậc nhất.

Công thức phát triển này của Trung Quốc, bởi vậy, đặt trọng tâm vào việc sao chép công nghệ của phương Tây bằng 3 cách thức chủ yếu sau (1) gián điệp công nghệ, (2) mua bán&sát nhập tập đoàn phương Tây để chiếm lấy công nghệ, và (3) dùng thị trường nội địa khổng lồ để áp lực các tập đoàn phương Tây muốn làm ăn ở Trung Quốc phải chuyển giao công nghệ.

Không phải Tây phương không nhận ra chiến lược này của Trung Quốc, song chỉ khi họ vỡ mộng rằng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc không dẫn đến cởi mở về chính trị mà trái lại còn giúp gia tăng quyền lực độc đoán đảng trị, và bừng tỉnh rằng siêu cường mới nổi này muốn tiếp bước Nga Sô thách thức trật tự quốc tế hiện hành, họ mới bắt đầu ra tay tấn công vào công thức phát triển của Đại lục với 3 đòn tương ứng sau (1) truy bắt gián điệp công nghệ, (2) siết chặt việc mua bán&sát nhập có yếu tố Trung Quốc (qua cơ chế CFI/Ủy ban Đầu tư Nước ngoài), và (3) đẩy mạnh thương chiến nhằm sắp xếp lại chuỗi sản xuất toàn cầu và tạo thế bảo vệ các tập đoàn làm ăn trên đất Trung Quốc.

Trung Quốc quả thật nên lo lắng, nhất là khi mới đây họ đã thất bại trong việc dùng lợi ích gây chia rẽ nội bộ khối Tây phương [3] và đang chứng kiến mỗi khi một quốc gia Tây phương ra đòn thì cả khối lại hùa theo hưởng ứng. Giờ đây vận mệnh của Trung Quốc, như Tập tuyên bố, sẽ được đặt trong nỗ lực của quốc gia này tự lực phát triển công nghệ. [4]


PHE NÀO SẼ THẮNG?

Thái độ cẩn trọng không cho phép chúng ta dựa trên thiên kiến mà vội vàng đưa ra câu trả lời, đặc biệt khi chứng kiến sự phát triển vũ bão của Trung Quốc vài thập niên qua.

Tuy nhiên nếu đồng ý rằng công nghệ là đấu trường chính của cuộc so găng, Trung Quốc rõ ràng đang gặp quá nhiều bất lợi:

Đầu tiên, những diễn biến thời gian gần đây cho thấy mặc dù rất nỗ lực, Trung Quốc vẫn chưa chế ngự được khả năng sáng tạo công nghệ. Sự khốn đốn của ZTE - tập đoàn công nghệ hàng đầu Trung Quốc, dưới lệnh cấm vận công nghệ của Hoa Kỳ là một minh chứng không thể rõ nét hơn.

Hơn thế, trong khi nhiều nghiên cứu chỉ ra tự do chính trị quan trọng thế nào đối với khả năng sáng tạo về dài hạn [5], yếu tố này lại không thể chấp nhận được đối với mô hình phát triển của Trung Quốc. Nghĩa là tham vọng tự lực công nghệ thông qua chiến lược Made in China 2025 của họ, ngay cả khi không bị để ý cũng đã không dễ thành công, huống hồ hiện nay lại đang là đích nhắm tấn công của toàn khối Tây phương thì lại càng khó khăn bội phần.

Hi vọng sót lại của Trung Quốc được nuôi dưỡng bằng niềm tin rằng tinh thần quốc gia phục thù một khi được thổi bùng lên sẽ là nhiên liệu cho cỗ máy sáng tạo quốc gia như những gì từng xảy ra ở Đức sau Thế Chiến I. Chưa rõ nỗ lực này sẽ đi về đâu nhưng nếu nhớ rằng trong khi Đức thuộc về nòng cốt của khối Tây phương, thừa hưởng sinh lực sáng tạo mạnh mẽ bắt rễ trong lối nghĩ, lối sống lý tính hóa cao độ hàng trăm năm của Tây phương nên đã chế ngự được khả năng sáng tạo, thì Trung Quốc, dù tăng trưởng liên tục những thập kỷ vừa qua nhưng chỉ mới chập chững những bước đầu tiên trong việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, sẽ thấy hi vọng của Trung Quốc dẫu chưa tới mức áo tưởng nhưng vẫn khá mong manh.

Một thước đo khác, trực quan hơn, có thể giúp dự đoán kết quả cuộc so găng. Sáng tạo vốn dĩ gắn liền với nhân tài, là sản phẩm của cá nhân và tập thể nhân tài. Thử xem nhân tài trên thế giới đã, đang và sẽ đổ về Mỹ và phương Tây hay là về Trung Quốc để thấy viễn cảnh Trung Quốc u ám ra sao nếu vẫn đẩy quốc gia dấn sâu vào cuộc cạnh tranh chiến lược này. [6]


VIỆT NAM PHẢI CHỌN

Câu hỏi đầu tiên đặt ra là liệu Việt Nam có thể đứng bên lề cuộc so găng lịch sử này với một tư thế trung lập được không? Khả năng cao là không. Việt Nam là một nước nhỏ yếu nằm ở vị trí trung tâm của đấu trường so găng là khu vực Biển Đông, mà đã nhỏ yếu thì khó thoát vòng chi phối của các siêu cường mỗi khi họ đụng độ. "Các nước Đông Nam Á có thể bị buộc phải chọn một trong hai"[7], lời phát biểu mới tháng trước của Lý Hiển Long tuy ngắn gọn nhưng đủ cho thấy đảo quốc này, nhờ đứng chân trên một di sản và kinh nghiệm ngoại giao phong phú, đã thấu hiểu thời cuộc ra sao.

Nghĩa là, dù Việt Nam có muốn hay không thì các siêu cường cũng sẽ tính toán trên lưng các nước nhỏ như Việt Nam, thế thì chi bằng Việt Nam chọn lựa vị trí của mình trước, ít ra cũng chiếm được đôi chút thế chủ động.

Tuy đáng lo ngại khi lịch sử chứa đầy các ví dụ cho thấy nước nhỏ, gồm cả Việt Nam, đã trở thành chiến trường ủy nhiệm của các siêu cường ra sao, nhưng lịch sử đồng thời cũng cho thấy các quốc gia chậm tiến chỉ có thể phát triển vượt bậc nhờ khéo léo khai thác mâu thuẫn giữa các siêu cường như thế nào. Nếu Nhật Bản nương vào cuộc tranh giành thuộc địa giữa các thực dân Tây phương thì Hàn Quốc tận dụng mâu thuẫn Chiến tranh Lạnh, nếu Đài Loan khai thác thù địch Mỹ-Trung thì chính Trung Quốc sau đó lại chủ động khoét sâu mâu thuẫn Mỹ-Nga Sô (mà việc xâm lược Việt Nam năm 1979 là một phần trong kế hoạch đó) - tất cả đều là để tìm cơ hội phát triển và hiện đại hóa quốc gia.

Vì sao lại thế? Vì chỉ khi đụng độ lớn các siêu cường mới sẵn sàng hỗ trợ hết mình cho đồng minh nhược tiểu nhằm phục vụ cho lợi ích của chính các siêu cường. Bên cạnh đó, vì nhu cầu chứng minh mô hình phát triển của mình là tốt nhất, sự hỗ trợ của các siêu cường cũng mang tính toàn diện, không chỉ gói gọn trong lãnh vực quân sự, mà lan rộng ra cả kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội.

Hiểu như thế để thấy Việt Nam chẳng nên lo ngại cuộc so găng lịch sử này mà trái lại cần hoan nghênh nó như một cơ hội, nếu đã coi phát triển quốc gia là mục tiêu tối thượng.

Cũng có nghĩa là, câu hỏi bây giờ không phải là có chọn phe hay không, mà là phải chọn phe nào?


CHỌN PHE NÀO?

Với những phân tích ở trên rõ ràng là nên nghiêng về phương án Mỹ/phương Tây bởi ưu thế vượt trội của phe này. Thực tế thì tất cả những nước Đông Á kể trên (Nhật, Hàn, Đài, Trung) cũng đã từng lựa chọn tương tự trong những thời điểm quốc gia đòi hỏi hiện đại hóa.

Đó là chưa nói đến có nhiều lý do khiến việc đứng về phe Trung Quốc không hề đảm bảo một kết cục tốt đẹp.

Trước hết, chiến lược ngoại giao bẫy nợ của Trung Quốc đang dấy lên lo ngại khắp nơi và thực tế là chưa có nước nhỏ yếu nào trở nên thịnh vượng nhờ gắn vận mệnh của mình vào Trung Quốc khi mà cách tiếp cận cùng thắng (win-win) chưa bao giờ là ưu tiên của quốc gia này.

Thứ nữa là tâm lý chống Trung Quốc lan rộng của người dân Việt Nam, hàm ý rằng ngay cả khi những người lãnh đạo bằng cách nào đó nhìn thấy lợi ích quốc gia trong việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc thì sự hợp tác đó cũng khó lòng được công chúng ủng hộ, nghĩa là đã để ngỏ sẵn sự thất bại.

Cuối cùng nhưng quan trọng không kém là hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo sẽ khiến mọi chọn lựa đứng về phía Trung Quốc, nếu thành hiện thực, đồng nghĩa với đánh đổi chủ quyền quốc gia trên thực tế. 


PHẢI LÀM GÌ?

Ngoại giao dù khéo léo đến đâu chỉ có thể trì hoãn chứ không thể chấm dứt được hiểm họa bành trướng Trung Quốc phủ bóng lên dân tộc chúng ta, và cũng không thể ngăn các siêu cường thương lượng trên lưng những nước nhược tiểu như chúng ta.

Ở một vị trí như nước ta trong tình thế hiện nay, ngoại giao cùng lắm chỉ giúp mua thời gian để chúng ta hiện đại hóa quốc gia nhanh nhất có thể. Mục tiêu của chúng ta không bao giờ là đổi danh dự lấy hòa bình để rồi đánh mất cả hai trong ô nhục, mà phải tìm mọi cách để xây dựng quốc gia hùng mạnh nhất có thể. Chỉ khi quốc gia chúng ta đủ hùng mạnh thì Trung Quốc mới phải cân nhắc thật kỹ trước khi chọn chúng ta làm đối tượng bành trướng của họ, và chính chúng ta mới đủ khả năng xoay sở vượt thoát thân phận con cờ trên bàn cờ nước lớn.

Mà muốn thế thì:

Đầu tiên, phải xóa bỏ tâm lý yếm thế, lo ngại xung đột của một thứ chủ nghĩa hòa bình thiếu chân đế. Nếu tin rằng phát triển quốc gia là mục tiêu tối thượng, trước là để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ sau là để dân tộc có cơ ngẩng mặt lên, chúng ta phải hoan nghênh và đón chào cuộc so găng lịch sử này như một cơ hội trăm năm cho dân tộc chúng ta. Vì rằng ngay cả khi chúng ta ở một vị trí chiến lược song nếu không có mâu thuẫn giữa các siêu cường thì chúng ta cũng chẳng vin vào đâu để phát triển vượt bậc cho được; tương tự, nếu mâu thuẫn giữa các siêu cường có nảy sinh đi chăng nữa nhưng nếu chúng ta nằm ngoài khu vực đấu trường trung tâm thì cũng rất khó tìm thấy cơ hội.

May thay chúng ta chẳng những có cả hai mà lại đang sở hữu lợi thế thời gian vì cuộc mâu thuẫn này chỉ mới chớm nở và còn nhiều đánh giá khác nhau xung quanh nó. Nhiều người, dựa trên tính khí thất thường của Trump cũng như động thái xuống nước gần đây của Trung Quốc, nghĩ rằng cuộc đụng độ này chỉ khởi lên tạm thời và mang tính chất giai đoạn, trong khi chúng ta, nhìn vào đồng thuận chống Trung Quốc của giới lãnh đạo chính trị phương Tây hiện nay [8] và dựa trên trải nghiệm va đập với Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử của chính chúng ta, sẽ thấy cuộc so găng chiến lược này còn kéo dài, mở rộng nhiều thập kỷ tới, và Trung Quốc sẽ không bao giờ dừng lại cho đến khi nó thất bại. Thời gian ở đây là một lợi thế chỉ khi chúng ta nhanh chóng đưa ra quyết định chọn phe của mình thay vì mải mê đu dây, bởi lẽ một khi cuộc đụng độ đã định hình, phe phái đã phân chia, sự lựa chọn chậm trễ của chúng ta sẽ không còn ý nghĩa, hay nói đúng hơn, chúng ta khi đó sẽ không còn quyền chọn lựa nữa.

Sau khi đã có một thái độ đúng đắn với cuộc so găng lịch sử và chọn đúng phe của mình, chúng ta mới có thể đưa ra những đối sách phù hợp. Đó là dù có khoác mặt nạ ngoại giao hòa hiếu với Trung Quốc tới cỡ nào, chúng ta cũng phải ý thức rõ rằng đó chỉ để mua thời gian nhằm ra sức hợp tác toàn diện với Mỹ và phương Tây, vốn đã tỏ rõ đồng thuận mong muốn một Việt Nam thịnh vượng (dĩ nhiên là vì lợi ích chiến lược của chính họ). Sự hợp tác này phải ở mức đồng minh bất luận tên gọi của nó là gì, phải đủ toàn diện ở tất cả các lãnh vực kinh tế, giáo dục, chính trị, quân sự, xã hội và với cả ba chủ thể là nhà nước, thị trường, xã hội dân sự, phải đủ sâu sắc tới mức tạo được sự chuyển biến về chất. Trong sự hợp tác toàn diện đó, lẽ dĩ nhiên là nước chậm tiến đi sau, Việt Nam phải đóng vai một người học trò siêng năng, học lấy học để một cách chủ động như Nhật, Hàn, Đài, Trung đã từng (nghĩa là không chỉ sao chép máy móc mô hình), và còn phải chạy đua với thời gian, vì như đã nói, ngoại giao dù khéo léo đến đâu cũng không kéo dài được cuộc hòa hoãn quá lâu. Sự chủ động của chúng ta là tối quan trọng: chúng ta phải đòi hỏi hợp tác 10 ngay cả khi họ chỉ sẵn lòng hợp tác 1, chứ không phải ngược lại như hiện nay.

Dĩ nhiên là sẽ có những trở ngại đến từ thế chế chính trị hiện hành của Việt Nam nhưng cần lưu ý rằng hiện đại hóa quốc gia là quá trình diễn ra rộng khắp trên nhiều lãnh vực mà hình thức chế độ chỉ là một trong số đó, có thể thay đổi trước hoặc sau tùy hoàn cảnh, miễn sao mục đích phát triển đạt được. Trung Quốc cũng có thể phá hoại những nỗ lực ngoại giao câu giờ của Việt Nam bằng cách chất vấn vì sao các đồng chí là cộng sản mà lại hợp tác sâu rộng với Mỹ/phương Tây, nhưng không khó để đáp trả bằng cách nhắc họ nhớ rằng chính những người cộng sản Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình đã từng mong muốn liên minh quân sự với Mỹ và trên thực tế là đã hợp tác sâu rộng với siêu cường này nhiều thập kỷ sau đó để mưu tìm phát triển.

Tóm lại, trở lực lớn nhất ngăn Việt Nam chớp lấy cơ hội trăm năm có một này không đến từ bối cảnh quốc tế bên ngoài hay hiện tình chính trị nội bộ mà chính là viễn kiến của những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay.

Với lề lối thực hành chính trị thiếu minh bạch ở đất nước chúng ta, người dân hiện không ở vị trí có thể biết được liệu những người lãnh đạo có nhìn ra cơ hội này không và có đang tìm cách chớp lấy hay không. Song khả năng cao là không, nếu chúng ta để ý những động thái sau (1) tuyên truyền chống Mỹ/phương Tây trong hệ thống giáo dục, báo chí chính thống, và đặc biệt trong lực lượng vũ trang vẫn tiếp tục được duy trì, (2) sự cương quyết không nhượng bộ Mỹ/phương Tây khi đụng đến một số vấn đề nhân quyền không quá cốt yếu phản ánh tâm lý thắng-thua với Mỹ/phương Tây còn đậm nét, và (3) sự rụt rè trong hợp tác với Mỹ/phương Tây mà gần đây là việc hủy bỏ nhiều chương trình giao lưu quốc phòng với Mỹ - tất cả đều cho thấy những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ coi việc hợp tác với Mỹ/phương Tây mang tính chất tình thế và giai đoạn nhằm cân bằng áp lực từ Trung Quốc, chứ hoàn toàn không thấy ở đó cơ hội phát triển và hiện đại hóa vượt bậc cho quốc gia như nó nên là.

Cũng có nghĩa là, cơ hội để Việt Nam không bị nhỡ tàu như bao lần trước đây trong lịch sử nằm ở chỗ liệu mỗi chúng ta, trong tư cách phần tử quốc gia, có làm đủ không trong việc khiến những người lãnh đạo phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên đảng phái, phe nhóm, cá nhân để từ đó thấu triệt vấn đề thời cuộc, hoặc chúng ta đã sẵn sàng chưa trong việc thay thế họ một khi thời gian không cho phép sự chậm trễ của họ thêm một giây phút nào nữa.

Nguồn ảnh: Global Times

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire