Nguyễn
Quang Duy
Báo chí trong nước hôm 12/5/2020
đưa tin Bộ Công an cho hay dự luật biểu tình chưa thể được trình lên Quốc hội
vì "cần phải được nghiên cứu kỹ, không để các thế lực thù địch,
phản động lợi dụng".
45 năm qua dường như đảng Cộng
sản Việt Nam chưa có được một ngày hòa bình, trong tâm trí họ xung quanh lúc
nào cũng có những "thế lực thù địch" đe dọa sự tồn vong của thể chế.
Câu chuyện "hòa hợp hòa
giải dân tộc" đã được nói đến ngay từ khi Chiến tranh kết thúc năm 1975,
nhưng đến nay nhà cầm quyền vẫn đề cao lịch sử của “bên thắng cuộc” và tiếp
tục coi mọi tiếng nói khác biệt là thù địch.
Mục tiêu của cuộc
chiến là gì?
Ngày 30/4/2020, trên VTC News,
Thượng tướng Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, ông Nguyễn Chí Vịnh từ góc nhìn của “bên
thắng cuộc” cho rằng “Hoà hợp, hoà giải dân tộc đã thành công”, ông nhấn mạnh:
“…chiến thắng này
đem lại lợi ích cho cả người thắng lẫn kẻ thua và thời gian đã chứng minh điều
ấy.”
Sau 30/4/1975, miền Nam từ một xã
hội đa nguyên gồm nhiều sinh hoạt dân sự, có cả những sinh hoạt thân cộng sản,
đã được miền Bắc “hợp” nhất thành một mối, từ người công an khu vực, phường
đội, quận đội, mọi cơ quan hành chính miền Nam đều do người miền Bắc nắm giữ
hoặc chỉ đạo.
Những người miền Nam thân cộng
hay theo cộng sản là những người đầu tiên bất “hòa” với việc “thống nhất” theo
mô hình lạc hậu của miền Bắc.
Những người này tin rằng theo
Hiệp định Paris miền Nam sẽ có vài năm chuyển tiếp, người miền Nam được hòa
giải với nhau và sau đó sẽ được quyền tự quyết dân tộc.
Mới đây, nhân dịp 30/4/2020, câu
chuyện của Bác sĩ Bùi Quỳnh Hoa con gái Đại tá Quân đội Bắc Việt Bùi Văn Tùng
kể trên BBC tiếng Việt có những điểm đáng được quan tâm.
Ông Bùi Văn Tùng là Trung Tá
Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, cấp chỉ huy cao nhất vào tiếp thu Dinh Độc Lập
ngày 30/4/1975, ông Tùng đã soạn Tuyên Bố Đầu Hàng cho Đại Tướng Dương Văn Minh
và chính ông đã đọc lời Chấp Nhận Đầu Hàng trên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Trong vai trò Chính ủy trước đây
ông Tùng phải tuyên truyền để bộ đội Bắc Việt “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào”, nhưng theo lời kể của Bác sĩ Quỳnh Hoa cho đến chết ông vẫn hỏi
bà: "Tại sao Mỹ lại đánh nhau với mình thế hả con?"
Rõ ràng cho đến cuối đời ông Bùi
Văn Tùng vẫn chưa có được một lời giải thích thỏa đáng nguyên nhân của cuộc
chiến tại Việt Nam, lịch sử với cộng sản chỉ để tuyên truyền nên không thể
thuyết phục ngay cả những chứng nhân “bên thắng cuộc”.
Khi được mở lòng trên BBC tiếng
Việt, Bác sĩ Bùi Quỳnh Hoa đã hòa giải tâm lý bị đè nén bấy lâu nay, bà cũng đã
hòa giải giúp cho cha bà ông Bùi Văn Tùng.
Thân phận của Điệp viên Phạm Xuân
Ẩn, của ký giả Lý Chánh Chung và của nhiều nhân vật miền Nam khác cũng cần được
cặn kẽ xem xét để xem họ nghĩ gì về chiến thắng của Quân Đội Bắc Việt.
Khác với nhiều ỵ́ kiến cho rằng
vấn đề hòa giải đã xong, hoặc chỉ là chuyện của chính quyền với dân, ở Việt
Nam dường như chưa có những cuộc nghiên cứu để tìm hiểu tâm lý của những bộ đội
cộng sản trong chiến tranh Việt Nam để xem mức độ “hòa giải tâm lý” của binh sĩ
bên thắng cuộc.
Bởi thế không ai có thể kết luận:
“hòa hợp và hòa giải đã thành công” đối với bên thắng cuộc.
Bên thua cuộc thì
sao?
Còn người miền Nam thuộc “bên thua
cuộc” thì khăn gói 10 ngày “học tập cải tạo”, có người 17 năm mới rời khỏi nhà
tù, nhiều người chết trong tù.
Một số nhân viên miền Nam cấp
thấp không bị tù, được giữ lại làm việc ít lâu, nhưng khi người miền Bắc đã nắm
được chuyên môn, thì họ bị sa thải vì là người của chế độ cũ.
Nền tảng chính trị, kinh tế, kỹ
thuật, văn hóa, giáo dục, xã hội, báo chí, văn nghệ, nghệ thuật, của miền Nam
bị xóa bỏ để xây dựng xã hội mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Những trận đánh tư sản, đánh văn
hóa, cưỡng bức dân đi kinh tế mới, cưỡng bức dân vào hợp tác xã, ngăn sông cách
chợ, phân biệt đối xử giữa người cũ với người mới đã buộc người miền Nam phải
bỏ nước ra đi, nhiều người chết trên đường tìm tự do.
Đến nay tại Việt Nam từ giáo dục,
báo chí, văn nghệ, nghệ thuật đến cuộc sống hằng ngày, mọi thứ vẫn còn ảnh
hưởng sâu đậm của “cách mạng”, của “chiến thắng 30/4/1975”, của người thắng kẻ
thua.
Những người miền Nam thuộc “bên
thua cuộc” còn ở lại Việt Nam, 45 năm qua chưa một ngày được đối xử công bằng,
thậm chí đến đời con, đời cháu của họ vẫn bị đối xử kỳ thị vì cha ông đã phục
vụ cho miền Nam tự do.
Những người sống ở nước ngoài và
con cháu họ vẫn bị kỳ thị về chế độ thị thực, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam
nếu nhà cầm quyền cho họ vào "sổ đen".
Chấm dứt chiến tranh bộ máy cầm
quyền thay vì xóa bỏ xung đột để tiến đến hòa hợp và hòa giải dân tộc thực sự,
thì hố cách biệt giữa những người Việt với nhau càng sâu hơn, một lịch sử có
“hợp” nhưng không có “hòa”.
Không “hòa” không
“giải”
Không có “hòa” thì không thể nào
giải quyết được những xung đột về văn hóa, về niềm tin, về chính trị, về lịch
sử, giữa đảng Cộng sản và những người thuộc “bên thua cuộc”.
Người miền Nam thuộc “bên thua
cuộc” vẫn luyến tiếc và giữ niềm tin vững mạnh là họ sẽ phục hồi lại văn hóa,
lại giáo dục, lại kinh tế, lại công bằng, tự do và dân chủ cho Việt Nam.
Ý tưởng này vẫn tồn tại và phát
triển trong sinh hoạt của những người miền Nam yêu chuộng tự do trong và ngoài
nước.
Cùng lúc, những người Việt ra hải
ngoại du lịch và du học, những người Việt về nước du lịch hay làm việc, và
không gian mạng toàn cầu, đã tạo cơ hội người Việt trong và ngoài nước, người
Việt thuộc nhiều thế hệ khác nhau, người Việt thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau,
người Việt thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau, cùng hòa hợp với nhau, từng bước
hòa giải, xóa bỏ những mâu thuẫn, những xung đột cùng hướng về tương lai.
Mặc dù không còn đất nước, không
còn chính phủ nhưng bài học “hợp” nhưng không “hòa” không “giải”, không cho
phép người Việt hải ngoại tái phạm sai lầm đã xảy ra, nên không hề có chuyện
người Việt tự do có nhu cầu phải đối thoại với giới chức cộng sản.
Sau 45 năm người Việt hải ngoại
không còn suy nghĩ thắng thua hay không có nhu cầu phải hòa hợp hay hòa giải
với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Các xung khắc mới…
Miền Bắc sau 30/4/1975 lúc đầu
đời sống kinh tế có phần tốt hơn, nhưng về lâu dài cả hai miền Bắc Nam đều cùng
chung số phận và sau 45 năm “thống nhất”, xung đột đã từng bước chuyển sang
những hình thức mới.
Xung đột giữa người cầm quyền với
người bị trị, với những nông dân mất đất, xung đột giữa người dân làm không đủ
ăn với những nhóm tư bản thân hữu phân chia lợi ích quốc gia, xung đột giữa
những trí thức ưu tư về vận mệnh quốc gia và những người kiên định con đường
cộng sản, và nhiều xung đột khác do thể chế chính trị gây ra.
Những xung đột này thay vì được
giải quyết một cách dân chủ trong vòng luật pháp, nhà cầm quyền cộng sản lại
khép cho những người bị thua thiệt là “thế lực thù địch”, rồi thẳng tay đàn áp,
bắt bớ, bỏ tù.
45 năm qua dường như đảng Cộng
sản chưa có được một ngày hòa bình, chung quanh họ lúc nào cũng có những “thế
lực thù địch” đe dọa sự tồn vong của thể chế Cộng sản.
Trở lại với cách suy nghĩ ông
Nguyễn Chí Vịnh cho thấy những người cộng sản 45 năm nay vẫn không hề thay đổi,
vẫn còn nghĩ thắng thua, chưa nghĩ đến chuyện “hòa” thì đừng mong nghĩ đến
chuyện “giải” để có được kết luận “Hoà hợp, hoà giải dân tộc đã thành công”.
Bài học từ
30/4/1975
Ở thời điểm 30/4/1975 mấy ai nghĩ
rằng cho đến năm 2020, nghĩa là 45 năm trôi qua, việc hoà hợp và hoà giải dân
tộc vẫn chưa được nhà cầm quyền cộng sản thực hiện.
Hai năm trước mấy ai nghĩ đến
chiến tranh thương mãi Trung Mỹ, chỉ vài tháng trước mấy ai nghĩ đại dịch viêm
phổi xảy ra khắp toàn cầu, và mấy ai nghĩ đến việc Trung cộng đang phải đối đầu
với suy thoái kinh tế, với nạn thất nghiệp, với việc thay đổi cấu trúc kinh tế
toàn cầu và rất có thể Trung cộng sẽ phải thay đổi chính trị: “thay đổi không
thì chết”.
Môi Bắc Kinh hở, thì răng Hà Nội
lạnh, nhiều thay đổi ắt sẽ xảy ra tại Việt Nam trong những ngày sắp tới.
Bài học của 30/4/1975 cho thấy
hòa hợp và hòa giải dân tộc không thể xảy ra trong thể chế độc tài, đảng trị,
mà chỉ có thể có nhờ môi trường dân chủ, đa nguyên, đa đảng với bầu cử thực sự
tự do.
Việc hoãn lại luật biểu tình cho
thấy Hà Nội vẫn xem dân là "kẻ thù", chứng tỏ trong suốt 45 năm qua
họ đã thất bại không hòa giải được như mong muốn của người dân hai miền Bắc
Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại lợi
14/5/2020
NGHUYỄN VĂN NGHỊ LÀ AI?
Thảo
Ngọc : "Trong khi mọi con mắt đang đổ dồn về mọi hướng để cố truy tìm
cho ra Nguyễn Văn Nghị là ai, thì một thông tin rò rỉ trên mạng chưa được kiểm
chứng, rằng Nguyễn Văn Nghị là con ông Nguyễn Văn Nhựt, đương kim Giám đốc công
an tỉnh Tiền Giang, trước đây từng là Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tỉnh Long
An. Ông Nhựt là con tướng CA Nguyễn Việt Thành?"
Theo
dõi vụ án tại bưu điện Cầu Voi xảy ra vào tối 13/1/2008 tại xã Nhị Thành, huyện
Thủ Thừa, tỉnh Long An, hai nữ nhân viên bưu điện là Nguyễn Thị Ánh Hồng và
Nguyễn Thị Thu Vân bị giết, chúng ta thấy vụ án hình sự này với những tình tiết
ban đầu cho thấy là khá đơn giản.
Cơ
quan chức năng tỉnh Long An chắc chắn chỉ trong một thời gian ngắn đã có thể
xác định được thủ phạm gây án. Vì những dấu vết tại hiện trường như dấu vân tay
trên các cửa và trên người 2 nạn nhân, những
vệt máu tại hiện trường. Nhất là tinh dịch trên người nạn nhân Hồng, và
2 vật chứng gây án vô cùng quan trọng là con dao và cái thớt dính đầy
máu, chưa nói đến lời làm chứng của những người trong vùng.
Cùng
với đó là báo chí đã vào cuộc và đồng loạt viết bài về vụ án này.
Báo
Công an Nhân dân ra ngày 16/1/2008 có bài: “Vụ 2 nhân viên bưu điện bị giết:
Nghi can là bạn trai của nạn nhân”.
Theo
đó: “Nghi can chính là Nguyễn Văn Nghị, ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang), có
dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị
Ánh Hồng. Vào đêm xảy ra vụ án, người dân địa phương thấy Nghị đi xe máy đến
Bưu điện Cầu Voi gặp Hồng và Vân.
Ngày
15/1, cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An tiến hành lấy lời khai ba thanh
niên quê ở tỉnh Vĩnh Long, tạm trú tại ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long
An) do có mối quan hệ với hai nạn nhân bị giết.
Đối
tượng đang bị câu lưu là Nguyễn Văn Nghị, ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang),
là bạn của ba thợ bạc tiệm vàng K.L., có dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một
trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng.
Vào
đêm xảy ra vụ án, người dân địa phương thấy Nghị đi xe máy đến Bưu điện Cầu Voi
gặp Hồng và Vân. Người dân địa phương còn miêu tả Nghị mặc quần Jean, khoác bên
ngoài chiếc áo gió rộng.
Ngay
trong ngày 14/1, cơ quan điều tra đã cử trinh sát đến tất cả những địa chỉ mà
Nghị thường xuyên lui tới nhưng không gặp anh ta. Sau đó, cơ quan điều tra cử
trinh sát mai phục tại nhà cha mẹ của Nghị ở Cai Lậy (Tiền Giang) đến nửa đêm
thì nghi can xuất hiện, các trinh sát thực hiện biện pháp áp giải về cơ quan điều
tra lấy lời khai.
Theo
tin ban đầu, Nghị cố tình đưa ra chứng cứ ngoại phạm nhưng không có cơ sở thuyết
phục nên cơ quan điều tra quyết định câu lưu để làm rõ.
Chị
Nguyễn Thị Phượng, người bán trái cây ở Cầu Voi cho biết, đêm đó Vân có
nói là tiền mua trái cây là do bồ của Hồng tài trợ. Người này đến từ Tiền
Giang.
Các
nhận định đều tập trung vào nghi can Nguyễn Văn Nghị, vì anh này nổi ghen do thấy
Sol có mặt ở Cầu Voi, hơn nữa Hồng không nghe lời anh ta mà đoạn tuyệt với
Sol(1).
Chúng
ta đều biết, với những vụ án như vụ bưu điện Cầu Voi, cơ quan điều tra đã cung
cấp thông tin cho báo chí và nhất là báo ngành Công an, chỉ rõ tên họ
nghi can như vậy là cơ bản họ đã phá án xong vụ án.
Thế
mà vụ án bỗng bị bế tắc. Và một kịch bản khác đã được các vị đạo diễn lừng
danh dựng lên theo đúng trình tự khớp với hiện trường đã được nghi phạm giết
người khai ra, để rồi bất ngờ, ngày 21 tháng 3 năm 2008, hơn 2 tháng sau
khi vụ án xảy ra, Hồ Duy Hải bị bắt và được cho là nghi phạm chính đã giết
2 cô gái này.
Việc
Hồ Duy Hải khai rất khớp với hồ sơ và hiện trường vụ án là điều quá đơn
giàn, mà ngành công an hay gọi là “bằng các nghiệp vụ”.
Còn
nghi can Nguyễn Văn Nghị như có phép tàng hình, như có phép thần thông quảng đại
của Tôn Ngộ Không khi xưa, tất cả những hồ sơ chứng cứ và những lời khai của
Nguyễn Văn Nghị trong những ngày bị thẩm vấn tại công an đều bỗng dưng biến mất
một cách rất tài tình khỏi hồ sơ vụ án. Kể cả những tinh dịch trên người nạn
nhân Hồng, dấu vân tay tại hiện trường cũng không được công an giám định
để xác định thủ phạm gây án, và mẫu máu cũng không được giám định ngay từ đầu,
mà phải đợi sau 4 tháng, khi mà máu đã bị phân hủy thì đưa đi giám định
nên không có kết quả.
Nhất
là việc tiêu hủy chứng cứ là con dao và cái thớt thì phải có lệnh của người
có quyền lực cao nhất của công an tỉnh Long An thì công an xã Nhị Thành mới
dám thực hiện.
Đã
có 2 người liên quan đến vụ án này chết đầy bí ẩn, là Nguyễn Thanh Hải
(trong bản án sơ thẩm 2008 ghi Nguyễn Văn Hải, và Huỳnh Văn Minh, cả 2 đều là
công an viên xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long
An.
Dư
luận rất nghi ngờ và cho rằng phải chăng 2 người này có nguy cơ “làm lộ bí mật
vụ án” nên phải chết để bịt đầu mối?
Vậy
Nguyễn Văn Nghị là ai mà làm cho một vụ án tưởng chừng đơn giản, nay sau 12 năm
với 3 phiên tòa vẫn còn gây nhiều tranh cãi và gây chú ý nhất trong công luận,
trên các phương tiện truyền thông và trên cộng đồng mạng. Nguyễn Văn Nghị có phải
là một “thái tử đảng” nào
đó hay không mà được những “bàn tay lông lá” xòe ra che chở.Thế lực bao
che cho Nguyễn Văn Nghị chắc phải có tầm cỡ nào để có thể “phủ
bóng” lên các bộ ngành công an và nội chính từ trung ương đến địa phương. v.v.
Chắc
chắn những dấu vân tay của Nguyễn Văn Nghị phải được lưu trữ trong tàng thư của
CA Tiền Giang và Bộ Công an. Và còn được lưu giữ nơi một số giấy tờ khác trong
những lúc Nghị thực hiện các giao dịch. Nếu ngành công an muốn tìm sự thật
xác định hung thủ gây án thì quá đơn giản đối với họ.
Cái
tên Nguyễn Văn Nghị đã làm sốt xình xịch trên cộng đồng mạng mấy năm nay, nhất
là sau phiên tòa Giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải kết thúc ngày 8/5/2020. Các
chuyên gia hàng đầu về ngành luật đã dày công phân tích, mổ xẻ và chỉ ra những
điều bất cập của phiên tòa Giám đốc thẩm và Quyết định bác kháng nghị của
VKSNDTC.
Cùng
với đó là vụ án Hồ Duy Hải đã làm nóng Nghị trường QH, khi mà nhiều ĐBQH lên tiếng
đòi điều tra lại vụ án, gửi Kiến nghị đến Chủ tịch QH, cho rằng quyết định của
Hội đồng Thẩm phán vụ Hồ Duy Hải thiếu thuyết phục, đề nghị QH giám sát tối cao
vụ tử tù Hồ Duy Hải..v.v.
Và
Cử tri TP.HCM đã kiến nghị Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào
cuộc để vụ án Hồ Duy Hải được xem xét lại một cách thấu đáo.
Trong
lúc tình hình đang nóng bỏng như vậy thì ông Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn
Trí Tuệ (1 trong 17 thành viên trong Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao) cho biết,
sau phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, nhiều thành viên trong Hội đồng thẩm
phán nhận được những tin nhắn đe dọa khủng bố, xúc phạm. “Nguy
hiểm hơn, có một vài đại biểu Quốc hội, chính thức là có 3 đại biểu Quốc hội
phát biểu không đúng với nội dung của vụ án, đưa ra nhận xét chủ quan, dựa vào
thông tin trên mạng xã hội, vấn đề này làm thêm phức tạp tình hình”. Và ông đã
trình với Bộ Công an để xem xét những hành vi này cần xử lý như nào.
Ngay
lập tức ba đại biểu Quốc hội Lê Thanh Vân, Trương Trọng Nghĩa và Lưu Bình Nhưỡng
đã lên tiếng về phát biểu của Phó Chánh TAND tối cao Nguyễn Trí Tuệ.
Đại
biểu Lê Thanh Vân cho biết, đã tìm mãi trong Hiến pháp cùng các đạo luật về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, nhưng không thấy quy định nào cho phép Phó
Chánh án TAND tối cao được "kết tội" đại biểu Quốc hội là phát ngôn
"nguy hiểm".(2).
Có
người cho rằng đây là tin bịa nhăm hù dọa và trấn áp dư luận trước làn sóng phẫn
nộ của công luận sau phiên tòa Giám đốc thẩm đầy tai tiếng.
Trong
khi mọi con mắt đang đổ dồn về mọi hướng để cố truy tìm cho ra Nguyễn Văn Nghị
là ai, thì một thông tin rò rỉ trên mạng chưa được kiểm chứng, rằng Nguyễn Văn
Nghị là con ông Nguyễn Văn Nhựt, đương kim Giám đốc công an tỉnh Tiền Giang,
trước đây từng là Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tỉnh Long An. Ông Nhựt là con
tướng CA Nguyễn Việt Thành?
Nếu
nguồn tin này là đúng thì nó giải đáp được mọi thắc mắc nghi vấn về nhân vật
Nguyễn Văn Nghị này.
Điều
này giải thích tại sao 2 phiên tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm đều quyết tâm kết
án tử hình Hồ Duy Hải cho bằng được.
Điều
này giải thích tại sao VKSNDTC thời ông Nguyễn Hòa Bình, vốn là Thiếu tướng,
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra BCA, bác
đơn đề nghị Giám đốc thẩm vụ án này.
Điều
này giải thích tại sao, với một bản án rất nhiều sai sót nghiêm trọng trong quá
trình tố tụng, như cố tình tiêu hủy vật chứng quan trọng và ngụy tạo chứng cứ,
như các chuyên gia đã chỉ ra, mà từ ông Chánh àn cùng 17 vị trong HĐTP vẫn bảo
thủ cho rằng “không thay đổi bản chất vụ án”?
Phải
là con “ông nọ bà kia” thì mới được nhiều ưu ái và và được những bàn tay “sáng
suốt và tài tình” dàn dựng một kịch bản chạy tội và tìm người thế mạng có vẻ
hoàn hảo như vậy.
Nhưng
“lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát”. Vì cái kim dù dấu kín trong bọc
bao nhiêu thì cũng có ngày lòi mũi ra.
Nếu
Nguyễn Văn Nghị chính là thủ phạm gây ra 2 cái chết đầy oan nghiệt cho 2 cô gái
tại bưu điện Cầu Voi thì trước sau gì y cũng phải đền tội.
Công
lý không phải của những kẻ cường quyền dùng bạo lực bắt người vô tội nhận cái
chết oan khiên, mà công lý mãi mãi mãi luôn thuộc về nhân dân.
Bởi
bàn tay của những tên đao phủ dù có nhuốm đầy nợ máu, ắt chúng không che nổi được
mặt trời.
Chú
thích:
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire