24/06/2014

Phạm Chí Dũng: Mua điện gấp 3 giá thường, kẻ nào nối giáo cho Trung Quốc?


(Bauxite VN23/06/2014)
  
Phản nghịch!

Khác hẳn với làn sóng “thủy triều đỏ Trung Hoa” những năm trước, con sóng cuồng bạo tàn dập mang tên HD 981 vào năm nay đã làm rách toạc đáy con thuyền chính trị Việt Nam vốn đã mục nát, khiến bục tung những khoảng tối tăm bẩn thỉu bị khuất tất lâu ngày.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), từng được một tờ báo Anh vinh phong là “cậm ấm hư hỏng” do người mẹ đỡ đầu của nó là Bộ Công thương, là tiếp dẫn ngoan ngoãn vô song cho chiến dịch tiếp tay cho Trung Quốc đến mức phản nghịch tình dân tộc.
Đất Việt – tờ báo của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và là một trong những xung kích phản biện vượt qua sợ hãi nhất trong hệ thống truyền thông nhà nước – mới đây đã cùng với GS TS Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội – hé lộ một “bí mật quốc gia”: từ nhiều năm qua, EVN đã mua điện từ các doanh nghiệp Trung Quốc với giá gấp đến 3 lần mức thông thường của doanh nghiệp Việt Nam.
Thậm chí, EVN mua điện của Trung Quốc với giá cao cả ở thời điểm nguồn cung cấp trong nước dồi dào, vin vào lý do vì hợp đồng mua điện với Trung Quốc được ký từ năm 2005 và chính thức mua điện từ 2009. Thái độ kinh doanh bất chấp này đã bất chấp một thực tế là trong thời gian gần đây, nguồn điện trong nước được tăng cường nhiều hơn, nhiều nhà máy điện ngoài EVN chưa huy động hết công suất, có thời điểm điện dư thừa, giá lại rẻ hơn nhiều giá điện Trung Quốc bán cho Việt Nam. Nhưng bởi lối hành xử đầy ngờ vực, EVN đã cố tâm mua điện trong nước với giá chỉ bằng 1/3 giá mua điện của Trung Quốc, kèm theo các điều kiện rất khắt khe.
Đến năm 2013, giới chuyên gia phản biện độc lập đã không còn giữ nổi bình thản: một lượng lớn điện thương phẩm mua từ Trung Quốc với giá cao và có xu hướng tăng nhanh những năm gần đây đã làm méo mó quá nhiều thị trường điện.
Cơ chế độc quyền vong bản đã phát triển đến mức trong khi nhiều doanh nghiệp sản xuất điện của Việt Nam sẵn sàng chịu lỗ để hòa lưới điện, khi suốt từ năm 2011 khi báo chí Việt Nam dồn dập phẫn nộ trực chỉ vào trách nhiệm của EVN về quan điểm “người Việt dùng hàng Trung”, doanh nghiệp thuộc loại độc trị theo cung cách thời chủ nghĩa tư bản dã man này vẫn quay mặt làm ngơ với hình ảnh tàu Bình Minh bị Trung Quốc cắt cáp và ngư dân Việt bị người “đồng chí tốt” đẩy vào vòng khốn quẫn ngay trên vùng biển quê hương.
Bởi từ một góc nhìn khác, ai cũng biết Trung Quốc sở hữu khối doanh nghiệp có biệt tài “quà cáp” hẩu nhất thế giới.
Ai phải bù lỗ và gánh nợ?
Ở Việt Nam, EVN là một trong những dẫn chứng sống động và dối trá nhất về việc người ta đã mượn lý thuyết kinh tế chỉ huy thời chiến để trục lợi như thế nào vào thời bình. Trong điều kiện nền chính trị độc đảng, thủ đoạn lợi dụng càng trở nên thâm ý hơn. Độc quyền và đặc lợi cũng vì thế đồng nghĩa với tội đồ, đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh.
Với trường hợp EVN, đó chính là tội ác.
Năm 2011, vào lúc nền kinh tế Việt Nam dợm chân vào suy thoái, sự đổ bể của hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã kéo theo một phát minh không tiền khoáng hậu kể từ thời mở cửa 1990: những doanh nghiệp nhà nước đặc trưng bởi chủ thuyết “giá chỉ có tăng chứ không giảm” như EVN và Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) đã tạo thành cặp song sinh có chung hậu môn. Hàng loạt chiến dịch đầu tư trái ngành của các tập đoàn này vào chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm rốt cuộc đã tích đọng gánh nợ đến trên 40.000 tỉ đồng.
Trong suốt ba năm qua, toàn bộ số nợ nần đó đã được EVN và Petrolimex tuồn qua tuyến đại tràng để đổ lên đầu người dân đóng thuế.
Nhưng cũng trong suốt ba năm qua, bất chấp những đợt tăng giá điện vô tội vạ của EVN, đã không có bất cứ cuộc kiểm tra nào được làm tới nơi tới chốn. Tất cả những dấu hiệu khuất lấp về tài chính và số lương “nghèo khổ” ít nhất vài chục triệu đồng theo đầu người ở tập đoàn này mà dư luận bức xúc từ năm 2011, đã hầu như không bị cơ quan chủ quản của EVN là Bộ Công thương phản cảm. Không những thế, những lãnh đạo cao nhất của Bộ Công thương như ông Vũ Huy Hoàng vẫn không ngơi nghỉ một chiến dịch khác: PR cho “cậu ấm hư hỏng” của mình.
Đó là một dạng PR không mới, nhưng lại chỉ được dư luận người dân Việt đặt tên chính thức từ năm 2012: PR chính sách. Chủ thể của hoạt động này chính là cái tên “nhóm thân hữu” – một chủ đề mà chưa một ủy viên bộ chính trị nào đủ can đảm hay liêm sỉ để mổ xẻ trước bàn dân thiên hạ.
Cũng không quá khó hiểu là những động thái PR chính sách đã xuất hiện không ít lần, kể cả ở cấp Chính phủ.
Nhóm thân hữu, về bản chất, lại có mối quan hệ ruột rà và móc xích giữa các chính khách ở các cấp khác nhau, từ dưới lên và từ trên xuống. Trong từng trải của người dân Việt Nam, thực tế sinh tồn của các doanh nghiệp lệ thuộc vào chính sách từ nhiều năm qua đã chứng tỏ một nguyên tắc bất thành văn: chỉ có chính sách mới tạo ra được lợi nhuận; để đến lượt mình, lợi nhuận phải quay lại “nuôi” chính sách.
Cũng là “nuôi” các chính khách.
Công nghệ “giết sống”

Giá xăng dầu và điện lực phi mã tất yếu dẫn đến lạm phát đội mồ sống dậy. Trong thực tế, chỉ số tiêu dùng CPI bị tác động không nhỏ và lập tức kích hoạt hàng loạt đợt tăng giá của hàng tiêu dùng, thực phẩm, giá vận tải hành khách và hàng hóa, giá nhà trọ…, làm khốn khó hơn cho đời sống công nhân và dân nghèo vốn đã quá khó khăn.
Đời sống dân sinh ấy cũng liên đới quá đỗi hữu cơ với ít nhất 80% lực lượng vũ trang và gần 3 triệu công chức viên chức nhà nước. Vài năm gần đây, ngay cả cảnh sát giao thông còn bị “đói” thì giới nhân viên an ninh không than thở mới là chuyện lạ.
Thế nhưng đối mặt với tất cả những trớ trêu và nghịch lý tận cùng ấy, lãnh đạo Bộ Công Thương vẫn hầu như khóa khẩu, trong khi vài ba viên chức cấp vụ của bộ này vẫn cố gắng “an dân” bằng thuyết minh việc tăng giá xăng dầu và điện không ảnh hưởng nhiều đến CPI.
Nhưng vào năm 2013, một cuộc thanh tra của Thanh tra chính phủ đã phát hiện trong bảng giá thành của mình, EVN đã hạch toán cả các công trình xây bể bơi, sân tennis và biệt thự vào giá bán điện. Giá bán điện lại được phổ cập cho mặt bằng dân trí thấp kém trong dân chúng. Và thêm một lần nữa, người ta có được bằng chứng về cái được coi là “trận đánh đẹp” của EVN: cuộc chiến bù lỗ vào dân.
Sau khi tăng giá liên tục trong ba năm qua, nợ ngân hàng của EVN đã được rút bớt. Nhưng chỉ là bớt một ít. Với hơn 30.000 tỉ đồng thất bát từ đầu tư trái ngành, EVN luôn phải đối mặt với tương lai phá sản nếu không thanh toán được cho các chủ nợ.
Trong khi đó, một con số lần đầu tiên được công bố là EVN chính là doanh nghiệp vay nợ ngân hàng lớn nhất Việt Nam, với hơn 118.000 tỉ đồng. Đây là mức dư nợ lớn nhất mà hệ thống ngân hàng dành ưu ái cho một tập đoàn nhà nước.
Với nợ nần khổng lồ và số lỗ do đầu tư trái ngành, người ta ước tính EVN phải tăng giá điện liên tục đến năm 2017-2018 thì mới may ra “hòa vốn”.
Thế nhưng cái điểm hòa vốn ăn thịt lẫn nhau ấy lại có thể khiến những người dân nghèo nhất phải quyên sinh. Bởi theo nguyên lý từ thời tư bản dã man, nếu doanh nghiệp độc quyền có được lợi nhuận, nhân dân chắc chắn phải mất đi phần lớn thu nhập của mình; còn nếu doanh nghiệp độc quyền hòa vốn, nhân dân phải chịu lỗ hoặc phá sản.
Không chỉ mất tài sản, người dân còn phải trả giá bằng cả sinh mạng bởi lối hành xử vô lương tâm của những quan chức độc quyền nhà nước. Vụ xả lũ đồng loạt của 15 nhà máy thủy điện ở miền Trung vào cuối năm 2013 đã “giết sống” đến năm chục mạng người nghèo nơi rốn lũ.
Tất cả đều biết cấp trên trực tiếp của các nhà máy thủy điện là EVN, còn thủ trưởng trực tiếp của EVN là Bộ Công thương. Tuy nhiên sau vụ “giết sống” trên, nhiều phóng viên báo chí quốc doanh đành nuốt nhục vì bị cơ quan tuyên giáo “chặn họng”. Nhân quả là đã không có bất kỳ một quan chức vô cảm và vô trách nhiệm nào phải đối mặt với vành móng ngựa, mặc dù chính vào lúc người dân chết chìm trong nước lũ xả trắng mênh mông, Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng còn bận “công du “ ở nước ngoài.
Tán tận lương tâm chắc chắn là từ ngữ hiển thị đầy đủ nhất tâm địa của các doanh nghiệp độc quyền và những quan chức “tận Trung” trong những năm suy thoái kinh tế qua. Kinh tế càng xuống dốc, đời sống người dân càng túng quẫn, thái độ sống chết mặc bay càng lên ngôi, chủ nghĩa thực dụng, lợi nhuận và vong quốc càng “hiển thánh”.

Tận Trung: Kẻ nào nối giáo?

Hãy trở về với câu chuyện tán tận lương tâm dân tộc khi EVN mua điện Trung Quốc cao gấp 3 lần giá bình thường.
Một lần nữa, báo chí nhà nước bùng lên câu hỏi: Những ràng buộc có nghi vấn trong hợp đồng mua bán điện với Trung Quốc và sự cố Hiệp Hòa liên quan tới việc sử dụng thiết bị Trung Quốc mới đây khiến dư luận đặt nghi ngờ về sự hiện diện quá lớn của Trung Quốc trong ngành điện Việt Nam. Phải lý giải điều này như thế nào, khi mà thiết bị Trung Quốc vốn bị coi là chất lượng kém, bãi rác công nghệ của thế giới? Liệu có thể đặt nghi vấn về lợi ích nhóm trong việc này?
Ông Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển khẳng định: Với tình trạng độc quyền như EVN hiện nay và thiếu minh bạch trong kinh doanh trên thị trường điện ở Việt Nam, trách nhiệm trong việc này trước hết là do chính cơ chế quản lý kiểu bộ chủ quản lâu nay không được thay đổi, tiếp đó là các cơ quan quản lý nhà nước trong ngành điện mà cụ thể là Bộ Công thương và cả EVN trong tổ chức và quản lý điện Việt Nam. Mấu chốt của vấn đề phải là nhanh chóng xóa bỏ tình trạng độc quyền của EVN, chấm dứt tình trạng một tay nắm cả mua bán, phân phối, điều độ…
Nhưng xem ra, những câu hỏi trên vẫn còn quá hiền lành trong bối cảnh quyền tự do báo chí vẫn trong “bước đi đầu tiên của thời kỳ đầu tiên của giai đoạn quá độ” ở Việt Nam.
Bởi trong tận cùng của bản chất, tán tận lương tâm quan chức và hậu quả của nó không thể không liên quan đến trách nhiệm của giới lãnh đạo chính phủ, những người đã im lặng hoặc “bật đèn xanh” cho EVN gây nên các chiến dịch tăng giá quốc nội và giảm giá quốc ngoại.
Sau ba năm kể từ lúc các chiến dịch “thủ ác” được kích phát dồn dập và bất chấp oán thán dân tình, kẻ tội đồ EVN đã có đủ thời gian chứng tỏ nó có năng lực gây ra tội ác ghê gớm đến thế nào, kể cả thành tích nối giáo ngoại xâm kinh tế.
Không chỉ bị lên án dữ dội bởi dư luận trong nước, khối u độc quyền doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam còn bị nhiều chính phủ xã hội dân sự trên thế giới và các tổ chức quốc tế chỉ trích kịch liệt, bởi hiện trạng bệnh hoạn đó đi ngược lại với những cam kết về “xóa độc quyền và hoàn thiện nền kinh tế thị trường” mà Chính phủ Việt Nam đã hùng dũng cam kết trước cộng đồng quốc tế.
Hiện trạng bệnh hoạn trên lại không thể xa cách với bản thông điệp đầu năm 2014 của người đứng đầu chính phủ. Đã sáu tháng trôi qua, cam kết “xóa độc quyền” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không còn mang tăm hơi nào của một thứ quyết tâm sủi bọt.

2 commentaires:

  1. khÔNG ĐƯOc tham nhũng thì làm sao đám quan chức sâu mọt có tiền mà biếu quan trên và trung thành với chế độ được. Chúng cố tình tạo ra như vậy, có như vậy chúng mới tồn tại được một nhà nước mafia núp dưới mỹ từ lợi ích nhóm

    RépondreSupprimer
  2. "..... không còn tăm hơi nào của một thứ quyết tâm sủi bot" !
    Quá chính xác không còn hình tượng ví von nào chính xác hơn.
    Bài qua hay , cảm ơn Đ/C Dũng .

    RépondreSupprimer