Nguyễn Quang
Dy
Gần đây, vấn
đề Cam Ranh lại nổi lên với những đồn đại (lúc thực lúc hư), như một ẩn số và
biến số, trong một đất nước có quá nhiều hằng số. Quy chế Cam Ranh rất nhạy
cảm, trong bối cảnh quan hệ Trung-Việt đang căng thẳng do Việt Nam xích lại gần
Mỹ và Nhật (qua 2 chuyến đi gần đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) và do Việt
Nam tiếp tục thăm dò dầu khí tại Biển Đông (mỏ khí Cá Voi Xanh và mỏ dầu Cá
Rồng Đỏ), bất chấp sức ép của Trung Quốc. Vai trò của Cam Ranh còn quan trọng
hơn người ta tưởng, vì nó không chỉ là một căn cứ hải quân có vị thế chiến lược
đặc biệt ở Biển Đông (và Tây Thái Bình Dương) mà còn là một ẩn số và biến số
trong ván cờ Biển Đông, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changer).
Quang cảnh Vịnh Cam Ranh |
Lịch sử Cam
Ranh
Cách đây 112
năm, trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), Hạm đội Baltic của Nga Hoàng
với hơn 40 chiến hạm (do đô đốc Rodzestvenski chỉ huy) đã đến trú tại vịnh Cam
Ranh gần một tháng để chờ tiếp liệu, sau hành trình vòng quanh thế giới từ
Baltic. Đó là khoảng lặng trước cơn bão, khi hạm đội Baltic xấu số của Nga bị
hạm đội Nhật (do đô đốc Togo chỉ huy) tiêu diệt tại eo biển Tsushima
(27/5/1905). Trong trận chiến định mệnh đó, hạm đội Nga đã bị mất tới 34 chiến
hạm và hơn 4.800 người. Tổn thất nặng nề tại Tsushima (tiếp theo tổn thất tại
cảng Arthur) đã làm cho đế quốc Nga suy xụp, phải ký hòa ước với Nhật.
Năm 1887,
một chiến hạm Nga đã được lệnh đi vòng quanh thế giới để đánh giá vai trò của
các hải cảng ở vùng biển Thái Bình Dương, trong trường hợp có xung đột
Nga-Nhật. Chiến hạm này đã ghé thăm khoảng 30 hải cảng trong vòng 6 tháng,
trong đó có Cam Ranh (12/1887). Trước trận chiến Tsushima, 4 thiết giáp hạm và
1 tuần dương hạm thuộc Hải đoàn Thái Bình Dương số 3 của Nga (do Chuẩn đô đốc
Nebogatov chỉ huy) đã tới Cam Ranh để nhập với Hạm đội Baltic của đô đốc
Rodzestvensky (9/5/1905). Nhưng sau đó, trước sức ép của Nhật và Anh, Pháp đã
yêu cầu hạm đội Nga phải rời Cam Ranh. Theo đánh giá của một số nhà lịch sử
quân sự Nga, Hạm đội Baltic đã dừng quá lâu tại Cam Ranh nên đô đốc Togo đã có
đủ thời gian để nghiên cứu kỹ đối phương và dàn trận phục kích hạm đội Nga tại
Tsushima.
Năm 1935,
Pháp bắt đầu xây dựng căn cứ hải quân Cam Ranh. Năm 1940, Cam Ranh rơi vào tay
Nhật, trở thành bàn đạp để Nhật tiến đánh Malaysia và Indonesia. Sau khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (9/1945), Cam Ranh được chọn làm nơi hội đàm
giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp D’Argenlieu (18/10/1946). Vì nhiều lý
do, quá trình đàm phán không kết quả, nên người Pháp và người Việt đã bị xô đẩy
vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, kéo dài đến năm 1954, và kết thúc
bằng trận Điện Biên Phủ.
Trong cuộc
Chiến tranh Việt Nam, từ 1965-1972 người Mỹ đã chi hơn $300 triệu để mở rộng
Cam Ranh thành một căn cứ quân sự khổng lồ “bất khả xâm phạm”, làm cứ điểm tiếp
liệu cho chiến tranh. Cùng với quân cảng Subic tại Philippines, Cam Ranh có thể
khống chế hành lang Tây Thái Bình Dương. Theo đánh giá của các chuyên gia quốc
tế, Cam Ranh là cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất tại khu vực Đông Nam Á, có thể
đón nhiều loại tàu lớn (gồm cả tàu sân bay). Với địa thế vịnh Cam Ranh kín đáo
không bị gió bão và dễ phòng thủ, Cam Ranh là quân át chủ bài có vị trí chiến
lược hiểm yếu đối với bàn cờ Biển Đông.
Cách đây gần
4 thập kỷ, trước chiến tranh biên giới Viêt-Trung, Việt Nam và Liên Xô đã ký
Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (3/11/1978), và Hiệp định Phòng thủ Chung
(2/5/1979) cho Liên Xô sử dụng Cam Ranh 25 năm, như một căn cứ quân sự (gần như
miễn phí), đến năm 2002 họ mới rút. Trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, Cam Ranh
trở thành căn cứ quân sự lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, và là tiền đồn để
Liên Xô cạnh tranh với Mỹ và kiềm chế Trung Quốc. Mặc dù người Nga vẫn luyến
tiếc, cho rằng bỏ Cam Ranh là quyết định sai lầm và muốn quay lại, nhưng khả
năng đó bất khả thi, vì lý do tài chính và chiến lược.
Tháng
3/1988, khi Trung Quốc tấn công chiếm Gac-Ma và 7 bãi đá (thuộc Trường Sa) của
Việt Nam, đồng minh Liên Xô đã án binh bất động. Vào lúc đó, không quân Liên Xô
tại Cam Ranh có 15 chiếc MIC-25, 4 chiếc TU-95, 4 chiếc TU-142, và 20 chiếc
TU-16, và hải quân có hải đoàn cơ động số 17 đang đóng quân tại đó. Trong lịch
sử gần đây, người Mỹ và người Nga đều đã từng bỏ rơi đồng minh Việt Nam (khi bị
Trung Quốc tấn công). Điều đó không có gì quá ngạc nhiên, mà chỉ khẳng định “không
có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Chỉ
có những người ngây thơ và ảo tưởng mới bị mơ hồ ngộ nhận. Vì vậy, Việt Nam
càng phải độc lập tự cường bằng cách phát huy nội lực dân tộc.
Trong nhiều năm
qua, Việt Nam theo đuổi chính sách “3 không” (không liên minh quân sự,
không có căn cứ quân sự nước ngoài và không liên minh với một nước này để chống
lại một nước kia). Nhưng chính sách “3 không” đó thiếu linh hoạt và chính sách
cân bằng đó thụ động, nên Việt Nam thiếu đồng minh thực sự. Sau khi Cảng Quốc
tế Cam Ranh mở cửa (3/2016), Cam Ranh đã đón 19 tàu từ 10 quốc gia, trong đó Mỹ
và Trung Quốc là hai nước có nhiều tàu đến nhất. Về nguyên tắc, quân cảng Cam
Ranh mở rộng cửa đón tiếp tàu chiến của bất kỳ nước nào sẵn sàng trả tiền để có
được dịch vụ sửa chữa và tiếp nhiên liệu.
Quân át chủ
bài Cam Ranh
Không phải
vô cớ mà Mỹ đã bỏ Subic và Nga đã bỏ Cam Ranh. Chiến tranh lạnh chấm dứt đã làm
cho Mỹ và Nga không còn nhu cầu thiết yếu phải duy trì các căn cứ quân sự vừa
tốn kém vừa gây tranh cãi. Lúc đó dù Manila có giảm giá thuê Subic xuống còn
$500 triệu thì Mỹ cũng không quay lại. Mỹ chỉ cần quy chế sử dụng dịch vụ bến
cảng cho tàu chiến của họ (port calls). Chỉ từ khi Trung Quốc trỗi dậy, bộc lộ
tham vọng độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ và thách thức vai trò của Mỹ
thì Cam Ranh mới trở lại màn hình radar.
Tàu ngầm Kilo 636MV tại Cam Ranh |
Trong khi dư luận Trung Quốc đánh giá cao Cam Ranh, “trong cả châu Á
không thể tìm đâu một quân cảng nào độc đáo và nguy hiểm như Cam Ranh…”,
thì dư luận Mỹ cũng nhận xét, “Ai chiếm được vịnh Cam Ranh, người đó sẽ
khống chế được một nửa Trung Quốc, và có thể kiểm soát được tuyến đường giao
thông biển Á-Âu…” Một chuyên gia Nhật (Hiroyuki Noguchi) cho rằng, “Cam
Ranh là khắc tinh của ‘Đường Lưỡi bò’ với địa thế độc đáo trên bàn cờ khu vực
Đông Nam Á. Cam Ranh của Việt Nam có thể là ‘thanh kiếm sắc’ chặn đứng mưu đồ
của Trung Quốc thò ‘Đường Lưỡi bò” ra Biển Đông”. Theo Noguchi, “Nếu kết
hợp căn cứ Cam Ranh với căn cứ Sucbic của Philippines, cả hai sẽ tạo thành hai
lưỡi kéo sắc có thể khống chế sự bành trướng của đường lưỡi bò”. (Theo Đại
Kỷ Nguyên, 14/3/201).
Theo Trung Tướng Nga A.V. Phêđôrôvích (đã từng có mặt tại Cam Ranh trong
thập niên 1980), “Cam Ranh đã âm thầm phát triển, trở thành một tổ hợp hải
quân và không quân hùng mạnh, với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, có thể đánh
trả mọi đe dọa chiến tranh đối với Việt Nam…”. Chuẩn đô đốc E.I.
Prokôpievich, là người cuối cùng rời Việt Nam năm 2002 với vai trò là Tư lệnh
căn cứ Cam Ranh, đã nhận xét, “Cam Ranh cho phép khống chế các eo biển
Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển
Philippines, biển Hoa Đông, thậm chí tới tận bắc Ấn Độ Dương và Persian Gulf”.
Bán đảo Cam Ranh chạy từ Bắc xuống Nam, được bao bọc bởi nhiều đảo to nhỏ
khác nhau, có lợi thế của một cảng nước sâu kín gió. Quân cảng Cam Ranh có diện
tích 60km2, nước sâu trung bình 16-25m (có nơi 32m), có thể chứa được cùng lúc
40 chiến hạm cỡ lớn (kể cả tàu sân bay). Cửa vịnh Cam Ranh rộng 4.000m, sâu hơn
30m, toàn bộ vịnh Cam Ranh nằm lọt trong những ngọn núi cao hơn 400m nên kín gió
và dễ phòng thủ. Nói cách khác, Cam Ranh là một pháo đài “khó công, dễ thủ”,
như quân át chủ bài trong ván cờ Biển Đông. Nếu đặt hệ thống tên lửa và radar
tại những điểm cao trên núi thì có thể khống chế cả vùng biển và vùng trời Biển
Đông (bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa) tới tận eo Mallaca và Philippines.
Cam Ranh nằm gần tuyến đường vận tải biển quốc tế, thuận tiện cho dịch vụ
hậu cần trong khu vực, có thể kiểm soát được tuyến đường vận tải biển nối Ấn Độ
Dương với Thái Bình Dương. Sân bay quốc tế Cam Ranh có đường băng dài 3.000m,
đủ khả năng tiếp nhận các máy bay cỡ lớn (như C-5 “Galaxy”, C-141 “Star
Lifter”, IL-76, B-52, Tu-95). Đối với các nước, quy chế sử dụng Cam Ranh vẫn là
một vấn đề nhạy cảm, nên việc sử dụng nó như một cảng quốc tế, hay cho thuê như
một căn cứ quân sự, là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Tàu USS Colorado (LCS 4) tại Cam Ranh, 5/7/2017 |
Cam Ranh và “tứ cường”
Trung Quốc và các nước khác đều hiểu ngầm là Mỹ không thể bỏ qua Cam Ranh
trong ván cờ Biển Đông. Vấn đề Mỹ quay lại Cam Ranh chỉ là thời gian và điều
kiện cụ thể (như giá cả). Chuyến thăm Cam Ranh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon
Panetta (6/1912) là dấu hiệu Mỹ muốn quay lại Cam Ranh, trong chiến lược xoay
trục sang Châu Á. Tất cả các căn cứ quân sự khác trong khu vực như Changi
(Singapore), Jokosuka (Nhật Bản), Busan (Hàn Quốc), Apra (Guam) đều không thể
so sánh được với Cam Ranh (chỉ cách Trường Sa/Hoàng Sa khoảng 600km). Trong khi
đó, căn cứ hải quân Subic đã bị núi lửa Pinatubo tàn phá nhiều. Theo một chuyên
gia Trung Quốc (ông Cao Vinh Vĩ), “Cam Ranh hết sức quan trọng đối với Việt
Nam, vì nó có khả năng khống chế đối với bất cứ đảo nào tại Biển Đông, cao hơn
bất cứ căn cứ hải quân nào của Trung Quốc hiện nay. Vì thế, Việt Nam chắc chắn
sẽ biến nó thành một căn cứ quân sự quan trọng nhằm tranh giành Biển Đông với
Trung Quốc…”
Liệu Nga hay Mỹ sẽ trở lại Cam Ranh? Cam Ranh có thể là mục tiêu cạnh tranh
của Nga và Mỹ trong chiến lược quay trở lại Châu Á của hai siêu cường quân sự
này. Nhưng vấn đề là nước nào có tiềm năng hơn về tài chính cũng như có ưu thế
hơn về chiến lược tại Biển Đông. Nhưng chắc cả Mỹ và Nga đều không muốn Cam
Ranh (và Việt Nam) rơi vào tay Trung Quốc. Những bước tiến xích lại gần nhau
hiện nay giữa Mỹ và Việt Nam là một chỉ dấu rõ hơn về hướng chuyển động trong
tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Nga. Quân cờ Cam Ranh đang nằm trên bàn cờ, sẽ
được ngã giá để ẩn số thành biến số, trong “trò chơi vương quyền”.
Nếu hai bên đã thỏa thuận được về nguyên tắc, thì vấn đề còn lại là giá cả.
Để tham chiếu, giá Mỹ đã thuê Subic là $3 tỷ/năm, trong khi giá Liên Xô đã thuê
Cam Ranh chỉ có $224 triệu/năm. Nhưng đó là giá cả thời trước, nay thực tế đã
thay đổi nhiều. Về thời hạn, Hà Nội đã cho Liên Xô sử dụng 25 năm (có thể gia hạn),
còn Mỹ chắc muốn lâu dài hơn (75 năm). Trong khi những vấn đề trên vẫn còn là
ẩn số, thì bàn cờ Biển Đông đang biến chuyển.
Quá trình vận đông tăng cường quan hệ đối tác chiến lược song phương là để
từng bước hình thành quan hệ đối tác chiến lược đa phương mới “Mỹ-Nhật-Ấn-Úc+1”
(Việt Nam/ASEAN). Quan hệ đối tác chiến lược song phương Mỹ-Việt và Nhật-Việt
vừa được nâng lên một bước rất quan trọng (significant) mang cả ý nghĩa chiến
lược và kinh tế, qua 2 chuyến thăm Mỹ và Nhật gần đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc, được thể hiện trong tuyên bố chung, cũng như bằng hành động thực tế đang
diễn ra trên bàn cờ Biển Đông. Về lâu dài, lợi ích chiến lược của Việt Nam gắn
liền với lợi ích chiến lược của “tứ cường” trong nhóm “4+1”.
Vì vậy, Việt Nam tất yếu phải giành cho các “đối tác chiến lược 4+1” một
“quy chế đặc biệt” (special status) trong việc sử dụng căn cứ Cam Ranh, như một
yếu tố gắn kết các đối tác chiến lược với nhau. Trước mắt, trong giai đoạn quá
độ, “quy chế đặc biệt” này trên thực tế không biến Cam Ranh thành “căn cứ
quân sự”, và các “đối tác chiến lược 4+1” “trên thực tế (de facto) không
phải là “liên minh quân sự”. Tuy Việt Nam không liên minh với nước này
để chống lại nước kia, nhưng phải có đồng minh chiến lược. Đây là một chính
sách “3 không linh hoạt” trong khuôn khổ “đối tác chiến lược 4+1”. Đối tác toàn
diện Mỹ-Việt có ý nghĩa hợp tác chiến lược, tuy chưa chính thức nâng lên thành
“đối tác chiến lược toàn diện”.
Chương trình Hợp tác Quốc phòng Viêt-Mỹ có thể bao gồm nhiều lĩnh vực liên
quan đến hợp tác chiến lược như: anti-surface warfare (ASUW), anti-submarine
warfare (ASW), maritime domain awareness (MDA), early warning, and command,
control, communications, computers, intelligence, surveillance and
reconnaissance (C4ISR). Sau khi ông Obama tuyên bố bỏ cấm Vận vũ khí, Việt Nam
quan tâm muốn mua máy bay tuần tra biển P-3C Orion và máy bay tiêm kích F-16
(để thay thế cho thế hệ MIG-21). Viet Nam cũng muốn được hưởng quy chế giống
chương trình Mỹ bán máy bay P-3C cho Đài Loan, và giống chương trình Mỹ bán máy
bay F-16 EDA cho Indonesia (dưới thời chính quyền Obama). Vừa qua, Mỹ (và Nhật)
đã tiến hành bàn giao cho Việt Nam một số tàu tuần duyên/tuần tra, để nâng cao
năng lực cảnh sát biển Việt Nam. Hàn Quốc cũng khẳng định bàn giao cho Việt Nam
2 tàu hộ tống săn ngầm (Gimcheon PCC-761 và Chungju PCC-762) thuộc thế hệ 3
(Flight III) của lớp chiến hạm Pohang (1.300 tấn), vừa được giải ngũ
(decommissioned) năm 2015 và 2016. Xu hướng này tuy đúng hướng (on track) nhưng
hơi muộn, vì bàn cờ Biển Đông chuyển quá nhanh.
Tàu hộ tống frigate lớp Gepard |
Cam Ranh và Nước Nga
Từ 28/6 đến 1/7/2017, CTN Trần Đại Quang đã thăm chính thức Nga (lần đầu
tiên). Ông Quang đã yêu cầu Nga tiếp tục ủng hộ Việt Nam trong tranh chấp tại
Biển Đông, “Chúng tôi đề nghị chính phủ Nga và Quốc hội Nga tiếp tục ủng hộ
lập trường của chúng tôi về vấn đề Biển Đông”. Trong dịp này, hai bên đã ký
nhiều hợp đồng (trị giá $10 tỷ), trong đó chắc bao gồm các hợp đồng mua vũ khí
(như 64 xe tăng T-90s, 2 tàu chiến Gepard mới, và tổ hợp tên lửa phỏng không
Pantsir-ME để lắp cho các tàu chiến lớp Molniya và Gepard)
Trong bài phân tích “Kế hoạch của Putin tại Biển Đông”, Oilprice
(một think tank của Nga) lập luận rằng Nga muốn quan hệ tốt với cả Trung Quốc
và Việt Nam, vì Nga vừa có mục tiêu toàn cầu vừa có mục tiêu khu vực. Ván cờ
ngoại giao của Nga vừa có tính toàn cầu vừa có tính khu vực, nên đôi khi hai
mặt này chồng chéo lên nhau, gây khó hiểu. Đối với Nga, vấn đề Biển Đông là một
phần của ván cờ lớn toàn cầù. Vấn đề Biển Đông và đối sách của Nga là biến số
chứ không phải là hằng số. (Nói cách khác Nga thực dụng và cơ hội).
Về nguyên tắc, Mátxcơva tuyên bố “chưa bao giờ can dự vào tranh chấp ở
Biển Đông” và “không đứng về bên tranh chấp nào”. Nhưng về thức tế,
Matxcơva vẫn có những mục tiêu chiến lược và quyền lợi trực tiếp, như các hợp
đồng nhiều tỷ USD về khai thác dầu khí và bán vũ khí cho các bên tranh chấp tại
Biển Đông. Vì vậy, hành động của Nga có thể không giống với tuyên bố chính thức
(nói một đằng làm một nẻo). Matxcơva muốn hợp tác tốt với cả Bắc Kinh và Hà
Nội, nên ý đồ của Nga khó hiểu hơn (vì hai mặt và bắt cá hai tay).
Cả Nga và Trung Quốc đều muốn thách thức sự thống trị của Mỹ, làm hai nước
xích lại gần nhau, nên Putin coi “Trung Quốc là đối tác tự nhiên và đồng
minh tự nhiên”. Theo Oilprice, quan hệ đối tác chiến lược Nga-Việt (với yếu
tố quân sự) còn tốt hơn triển vọng tăng cường quan hệ đối tác Mỹ-Việt. Tuy Bắc
Kinh khăng khăng chống lại quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, nhưng họ vẫn chấp
nhận quan hệ hợp tác quân sự Nga-Việt.
Hiện nay, quan hệ Nga-Việt đã được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn
diện”. Matxcơva muốn tăng cường hợp tác với Hà Nội về dầu khí, xuất khẩu vũ
khí, công nghệ quốc phòng, và muốn trở lại Cam Ranh. Việt Nam còn là cửa ngõ để
Nga thâm nhập vào cộng đồng ASEAN. Oilprice cho rằng hợp tác với Nga, Việt Nam
tiếp cận được công nghệ vũ khí tiên tiến và khai thác được năng lượng, đồng
thời tránh bị kẹt vào xung đột Mỹ-Trung. (Phải chăng người Nga chỉ muốn Việt
Nam trở là thị trường và công cụ của họ?).
Nhưng Matxcơva giải thích thế nào khi Trung Quốc tấn công Việt Nam chiếm
đảo Gac-Ma và 7 bãi đá tại Trường Sa (3/1988), thì người Nga lại án binh bất
động, trong khi họ là đồng minh chiến lược, với cam kết “phỏng thủ chung”, đang
sử dụng căn cứ quân sự Cam Ranh của Việt Nam. Và tại sao năm 2016 khi Việt Nam
và nhiều nước khác phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, thì Nga và Trung
Quốc lại tập trận chung tại Biển Đông (Joint Sea 2016) ngay sau phán quyết của
Toà trọng tài Quốc tế (PCA) phủ nhận “đường lưỡi bò”? Sau những trải nghiệm đó,
liệu Nga còn là một đồng minh đáng tin cậy nữa không?
Tàu hộ tống
corvette lớp Molniya
|
Cam Ranh và hơn
thế nữa
Quan hệ hợp
tác song phương Viêt-Úc đã có từ lâu, triển vọng sắp tới chắc sẽ được tăng
cường hơn nữa, đặc biệt là hợp tác về hải quân và tuần tra tại Biển Đông. Tuyên
bố cứng rắn của Thủ tưởng Úc Mancolm Turnbull tại diễn đàn Đối thoại Shangi-La
(Singpapore, 2/7/2017) là một dấu hiệu tích cực, tiếp theo tuyên bố cứng rắn
của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis. Việt Nam và Úc đã từng hợp tác về dầu
khí tại Biển Đông (lô 136-03) qua công ty Talisman (Úc) nay nhượng lại cho công
ty Repsol (Tây Ban Nha). Từ 21/6/2017, dàn khoan Deepsea Metro I của Odfjell
Drilling tiếp tục khoan thăm dò tại lô 136-03.
Một diễn
biến mới là Phó thủ tướng/Ngoại trưởng Phạm Bình Minh vừa đi Ấn Độ (4/7/2017)
để kêu gọi Ấn Độ có vai trò lớn hơn đối với chiến lược và an ninh của ASEAN. “ASEAN
ủng hộ Ấn Độ có vai trò lớn hơn về chính trị và an ninh, để kiến tạo một khu
vực dựa trên luật pháp quốc tế. Chúng tôi hy vọng Ấn Độ tiếp tục là đối tác
cùng nỗ lực với chúng tôi duy trì an ninh chiến lược và tự do hàng hải ở Biển
Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế”.
Theo
Reuters, Việt Nam đã cho công ty dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh tiếp tục thăm dò tại
lô 128, “vì lợi ích chiến lược, chứ không hẳn vì tiềm năng thương mại”.
Theo một quan chức ONGC Videsh, “Việt Nam muốn chúng tôi tới đó vì Trung
Quốc can thiệp ở Biển Đông. Việt Nam vừa gia hạn 2 năm cho hợp đồng dầu khí
này, sau khi Ngoại Trưởng Việt Nam thăm Ấn Độ để trao đổi về tăng cường hợp tác
chiến lược và an ninh tại Biển Đông. “Vietnam Goes Bold In the
South China Sea”, American Interests, July 6, 2017).
Ngày 5/7/2017, tàu tác chiến ven bờ USS Coronado (LCS-4) và USNS Salvor
(T-ARS-52) của Hải quân Mỹ đã cập cảng quốc tế Cam Ranh, bắt đầu hoạt động Giao
lưu Hải quân (NEA) giữa Việt Nam và Mỹ, kéo dài 4 ngày. Đáng chú ý là hoạt động
giao lưu hải quân hai nước diễn ra chỉ 3 ngày sau khi chiến hạm USS Stethem
tuần tra (FONOP) trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn, thuộc Hoàng Sa
(2/7/2017). Có lẽ đây là dấu hiệu
Washington muốn trấn an các nước đồng minh Châu Á và tỏ ý thất vọng vì Bắc Kinh
không chịu gây thêm sức ép với Bắc Triều Tiên để kiểm soát chương trình hạt
nhân và thử tên lửa của họ. Có lẽ xu hướng Mỹ cứng rắn lên và hỗ trợ
đồng minh mạnh lên để đối phó Trung Quốc là đúng hướng (on track), vì “America
first” không phải là America alone. Mỹ không nên chơi ván cờ Biển Đông một
mình, vì đó là bàn cờ vây khó chơi như “trận đồ bát quái”, chứ không giống cờ
vua.
Washington cho rằng Bắc Kinh đã lợi dụng nhân nhượng của Mỹ vì Triều Tiên
để lấn sân tại Biển Đông. Có lẽ “tuần trăng mật” của Donald Trump và Tập
Cận Bình đã hết, nên thái độ của Trump ngày càng bất bình và hết kiên nhẫn với
Bắc Kinh (trong khi ông Trump vốn không phải là người kiên nhẫn và nhất quán).
Washington đang gia tăng sức ép đối với Bắc Kinh trong một loạt vấn đề, làm cho
quan hệ Mỹ-Trung đang căng thẳng lên. Đây là hệ quả của việc Tập Cận Bình đã
đánh giá sai (misread) ông Trump và tính toán nhầm (miscalculation). (“How
China Misread Donald Trump”, Paul Gewirtz, Politico, July 6, 2017).
Trong cuộc điều trần tại Hạ viện Mỹ (14/6/2017), Ngoại trưởng RexTillerson
tuyên bố việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo phi pháp và mở rộng cơ sở hạ tầng tại các
hòn đảo trong vùng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, “đang gây ra bất ổn ở
khu vực Thái Bình Dương. Những bất ổn đó có thể đưa chúng ta vào một cuộc xung
đột”. Theo ông, đây là một vấn đề cần giải quyết cấp bách trong quan hệ
Mỹ-Trung, không thể để Bắc Kinh biến vấn đề kinh tế và thương mại thành “vũ
khí” lôi kéo các đồng minh của Mỹ theo Trung Quốc. Trung Quốc không thể dùng
chiến thuật đó để giải quyết những vấn đề gai góc như Triều Tiên hay Biển Đông.
Bộ trưởng quốc phòng James Mattis cũng tuyên bố Mỹ sẽ tiếp tục chiến dịch “khẳng
định quyền tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông” bất chấp phản đối mạnh mẽ
của Trung Quốc. Tiếp theo 2 lần tuần tra FONOP gần đây, Mỹ đã bất ngờ tập trận
phối hợp tác chiến tại Biển Đông giữa các khu trục hạm và máy bay ném bom chiến
lược B-1B từ Guam. Tuần tới, Mỹ, Nhật, Ấn Độ sẽ tiến hành cuộc tập trận chung
lớn nhất tại Vịnh Bangal (theo Reuters, 6/7/2017).
Trong khi đó, tại Hamburg, bên lề hội nghị G20 summit, Tổng thống Trump đã
gặp Tổng thống Putin hơn 2 giờ (7/7/2017). Cuộc họp kéo dài “tuyệt vời”
đó (theo lời ông Trump) đã phủ một bóng mây xám lên cuộc gặp giữa ông Trump và
ông Tập ngày hôm sau (8/7/2017). Trước đó, ngày 4/7/2017, Bắc Triều Tiên nhằm
đúng ngày độc lập của Mỹ để thử tên lửa vượt đại châu (ICBM), trong khi ông Tập
đang bận tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia khác tại Hamburg. Liệu đây có
phải là “làn ranh đỏ” buộc Bắc Kinh phải hành động quyết liệt không, và
liệu ông Tập có thể làm gì? (theo yêu cầu của ông Trump). Giới nghiên cứu cho
rằng ông Tập khó làm được gì, trong khi ông Trump mất hết kiên nhẫn. Chắc “Tuần
trăng mật” của ông Trump và ông Tập sẽ kết thúc tại Hamburg, vì cả hai bên
đều ảo tưởng về nhau.
Thay lời kết
Trong khi Tổng thống Trump tiếp Thủ tướng Phúc trong nhà Trắng, thì CTN
Trần Đại Quang tiếp TNS John McCain trong Nhà Vàng, tại Hà Nội (sáng 1/6 giờ
VN, tức chiều 31/5 giờ Mỹ). Ngay hôm sau, ông McCain bay vào Cam Ranh để thăm
chiến hạm USS John S. McCain đang đậu tại cảng Cam Ranh. Nếu trong chính trị,
người ta hay dùng hình tượng (symbolism) thì những việc trên có ý nghĩa gì?
Chắc không phải ngẫu nhiên và vô cớ. Ngay sau khi về đến Hà Nội, chưa kịp nghỉ
thì Thủ tướng Phúc đã vội lên đường thăm Nhật (4/6), là một chuyến đi quan
trọng không kém. Còn ông McCain vừa về đến Washington (5/6/), đã vội ra thông
cáo với những lời lẽ cứng rắn đầy ẩn ý, “Chúng tôi hy vọng rằng sự hiện diện
của USS John S. McCain là biểu tượng cho sự hòa giải giữa Mỹ và Việt Nam, cũng
như nhắc nhở các đồng minh và kẻ thù của chúng ta về cam kết lâu dài của Hoa Kỳ
tại khu vực”.
Nếu ông Trump là Tổng thống “dealer”, thì vừa rồi giữa Mỹ và Việt Nam có
thỏa thuận gì là quan trọng nhất, nếu không phải là hợp tác chiến lược. Không
phải ngẫu nhiên mà thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc cứng rắn hơn (cả lời nói
và hành động). Không phải vô cớ mà quan hệ Trung-Việt bỗng trở nên căng thẳng
hơn, và thái độ của Hà Nội bỗng trở nên cứng rắn và tự tin hơn. Trong bối cảnh
hiện nay, có lẽ Cam Ranh là quân át chủ bài trong ván cờ Biển Đông, có thể gỡ
thế bí cho Hà Nội, cả về chiến lược và về tài chính. Vì người ta hay nói đến
quy luật “cùng tắc biến”, có lẽ đây là thời cơ để Việt Nam “biến”. Tuy có cơ
hội và át chủ bài, nhưng nếu không biết chơi và ngả bài đúng lúc thì cũng không
thể “chuyển”.
Gần đây, cụm
từ được người Việt hay nhắc tới là “tự diễn biến, tự chuyển hóa” (cả
nghĩa đen và nghĩa bóng, vừa tiêu cực vừa tích cực). Phải chăng Hà Nội đang “tự
diễn biến, tự chuyển hóa”? Từ sợ Trung Quốc, nay người Việt không còn sợ
nữa; từ không dám cãi Trung Quốc; nay họ dám cãi lại (làm Tướng Phạm Trường
Long tức giận bỏ về); từ không dám làm mất lòng Trung Quốc, nay dám làm mất
lòng Trung Quốc (để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam). Phải chăng Việt
Nam đang từng bước xoay trục để “thoát Trung”, điều chỉnh chính sách “3 không
thụ động” thành “3 không linh hoạt”, chính sách “cân bằng thụ động” thành “tái
cân bằng tích cực” (active rebalance). Phải chăng đó chính là quy luật “cùng
tắc biến”.
NQD. 9/7/2017
Nguồn: Theo trannhuong.net
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire