Câu
lạc bộ Lê Hiếu Đằng sẽ tổ chức tưởng niệm Đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh chống
giặc bành trướng Trung Quốc xâm lược tại tượng đài Trần Hưng Đạo, Bến Bạch
Đằng, Quận 1 lúc 9:01 sáng 17.2.2017.
Mời đồng bào, chiến sĩ củng tham
dự
Chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng: Huỳnh Kim Báu
Bài "Chiến tranh Biên giới 1979: Không thể quên lãng" dưới đây đăng trên TuanVietnam ngày 17/2/2016 cách đây đúng 1 năm. Một năm sau bài viết vẫn còn nguyên giá trị.
Chúng tôi đăng lại để bạn đọc cùng tưởng nhớ ngày Trung quốc xâm lược Việt Nam 17/2/1979.
Lại nữa, phải đăng lại để ông Nguyễn Phú Trọng căng tai mà nghe cho thủng!
Ban Biên Tập
Thiếu tướng Lê Văn Cương: "Đây là một cuộc kháng
chiến chống xâm lược của dân tộc VN. Về bản chất, nó không khác gì các cuộc
kháng chiến oanh liệt trong lịch sử như nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần chiến
thắng quân Nguyên, nhà Lê tiêu diệt quân Minh, và Quang Trung Nguyễn Huệ đánh
thắng nhà Thanh.
Làm một phép so sánh thế này, năm 1788 đầu 1789, trong vòng 10 ngày, Quang
Trung Nguyễn Huệ đã hành quân thần tốc để giải phóng và tiêu diệt 29 vạn quân
Thanh vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789. Hàng năm ta vẫn kỷ niệm sự
kiện này trong lễ hội Gò Đống Đa.
Còn cuộc kháng chiến năm 1979, với khoảng thời gian hơn 17 ngày (tính từ
17/2 khi TQ tràn qua biên giới VN đến 5/3/1979 khi TQ bắt đầu rút quân – PV),
ta đã đuổi được 60 vạn quân TQ ra khỏi bờ cõi. Một cuộc kháng chiến chống xâm
lược như vậy rất oanh liệt, vĩ đại chứ."
Nhắc để dân ta nhớ,
biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương
tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không thể quên lãng.
- Tưởng niệm cuộc chiến 1979: Không có gì nhạy cảm
- Sòng phẳng với lịch sử không phải kích động hận thù
- Trung Quốc phải thừa nhận
- Thiếu quân chủ lực vẫn đánh thắng
- Luận về cuộc chiến, cần sự ngay thẳng
LTS:Nhân kỷ niệm 37 năm ngày mở đầu Chiến tranh Biên giới phía Bắc 17/2/1979, Tuần Việt Nam giới thiệu lại cùng bạn đọc một bài viết đăng tải cách đây tròn 2 năm mà đến nay vẫn nguyên tính thời sự nóng hổi.
Ảnh: Mạnh Thường |
Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện chiến lược, Bộ
công an:
Tưởng niệm cuộc chiến
1979: Không có gì nhạy cảm
- Sau 35 năm nhìn lại
cuộc chiến tranh biên giới (CTBG) phía Bắc năm 1979, theo ông, chúng ta cần
vạch ra rõ ràng, dứt khoát về bản chất và vị trí của cuộc chiến này trong lịch
sử như thế nào?
Thiếu tướng Lê Văn
Cương: Đây là một cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc VN. Về bản chất, nó
không khác gì các cuộc kháng chiến oanh liệt trong lịch sử như nhà Lý chống
quân Tống, nhà Trần chiến thắng quân Nguyên, nhà Lê tiêu diệt quân Minh, và
Quang Trung Nguyễn Huệ đánh thắng nhà Thanh.
Làm một phép so sánh thế này, năm 1788
đầu 1789, trong vòng 10 ngày, Quang Trung Nguyễn Huệ đã hành quân thần tốc để
giải phóng và tiêu diệt 29 vạn quân Thanh vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ
Dậu 1789. Hàng năm ta vẫn kỷ niệm sự kiện này trong lễ hội Gò Đống Đa.
Còn cuộc kháng chiến năm 1979, với
khoảng thời gian hơn 17 ngày (tính từ 17/2 khi TQ tràn qua biên giới VN đến 5/3/1979
khi TQ bắt đầu rút quân – PV), ta đã đuổi được 60 vạn quân TQ ra khỏi bờ cõi.
Một cuộc kháng chiến chống xâm lược như vậy rất oanh liệt, vĩ đại chứ.
-Thế nhưng, nếu như chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ đã được ghi lại
đậm nét, được tưởng nhớ hàng năm, thì cuộc kháng chiến 1979 đến nay dường như
vẫn vắng bóng trong lịch sử VN?
Trong hơn 20 năm nay, có lẽ từ khi bình
thường hóa quan hệ Việt Trung năm 1991, chúng ta không tổ chức kỷ niệm, hệ
thống truyền thông không đưa tin sự kiện CTBG tháng 2/1979, ngay cả trong những
năm kỷ niệm chẵn như 1989, 1994, 1999, 2004, 2009.
Hệ thống giáo trình chuẩn quốc gia các cấp học phổ thông, trung học, đại
học và sau đại học đều không đưa cuộc kháng chiến này vào. Thế hệ trẻ không
biết gì về cuộc chiến này.
Theo tôi, không có gì nhạy cảm ở đây,
khi tưởng niệm một chiến công oanh liệt đến thế của dân tộc. Nó hoàn toàn khác
và không liên quan gì đến kích động chủ nghĩa dân tộc cả.
Nước nào trên thế giới cũng tổ chức
những ngày kỷ niệm tương tự như vậy. Nhật Bản và Mỹ hiện là đồng minh chặt chẽ.
Nhưng chẳng hạn với sự kiện Trân Châu Cảng 7/12/1941, hàng năm nước Mỹ vẫn kỷ
niệm và thế hệ sau vẫn hiểu rất sâu sắc thảm họa. Còn thanh niên Nhật vẫn tỏ
tường tội ác của Mỹ khi ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki.
Nước Nhật ghi rõ sự kiện này trong SGK và cũng tưởng niệm hàng năm.
Ở châu Âu, thanh niên Anh, Pháp… vẫn
hiểu tường tận tội ác của phát-xít Đức giai đoạn 1940-1945. Tất cả hệ thống
sách giáo khoa sử của Mỹ, Nhật, Anh… đều có những trang đen tối như vậy cả,
trong khi hiện họ là đồng minh của nhau.
Đối với VN, việc kỷ niệm những sự kiện
như chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, thống nhất đất
nước 1975, CTBG 1979… chính là để các thế hệ hiện tại khắc cốt ghi tâm, tưởng
nhớ đến những người đã chiến đấu bảo vệ đất thiêng. Và cũng là để hun đúc cho
họ ý chí quật cường yêu nước.
-Vậy chúng ta cần có hành động gì để trả lại vị trí xứng đáng cho cuộc
chiến chống xâm lược 1979, và ghi tạc công lao của những người đã ngã xuống vì
đất nước?
Có một số việc cần làm:
Đưa sự kiện này vào thành chương/ phần
trong giáo trình chuẩn quốc gia tại các cấp học, giống như đã làm với các cuộc
kháng chiến khác. Muộn còn hơn không, tôi đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần
biên soạn một chương riêng về cuộc chiến, đưa vào hệ thống giáo trình chuẩn
quốc gia (phổ thông, đại học, và sau đại học…).
Tổ chức kỷ niệm trang trọng chiến thắng
oanh liệt này. Rà soát tổng kiểm kê lại những người có công trong cuộc kháng
chiến.
Lên tiếng để thế giới
hiểu
-Từ những nghiên cứu của bản thân, xin ông cho biết dư luận thế giới nhìn
nhận thế nào về bản chất cuộc chiến 1979, và về TQ trong cuộc chiến tranh này?
Cuộc xâm lược của 60 vạn quân TQ trên
toàn tuyến biên giới VN có bằng chứng rõ ràng, được ghi âm, ghi hình, cả thế giới
biết và hầu hết đều có cái nhìn thống nhất đó là cuộc chiến tranh xâm lược VN.
Cuộc xâm lược 1979 đã khiến thế giới
hiểu rõ bản chất của TQ. Nó khiến họ mất uy tín quốc tế, bộc lộ bản chất bành
trướng Đại Hán, bản chất nói một đằng làm một nẻo, không hề chứng tỏ chủ trương
“phát triển hòa bình” của TQ khi đó.
Trong khi hơn 20 năm nay chúng ta không
tổ chức kỷ niệm CTBG 1979 thì bạn bè tôi đã tập hợp được ở TQ vào những năm kỷ
niệm chẵn, họ làm rất rầm rộ. Có hàng 500 – 700 bài báo với tiêu đề kiểu “Chiến
công oanh liệt của Quân Giải phóng Nhân dân TQ phản công quân VN xâm lược”,
“Quân xâm lược VN đã phải trả bài học đắt giá”, v.v… Một sự xuyên tạc, đổi
trắng thay đen.
Còn chúng ta? “Gieo cái gì thì gặt cái
đó”, khi chính VN im lặng về một cuộc chiến chính nghĩa như vậy, thì thế giới
làm sao bày tỏ sự ủng hộ?
-Qua sự kiện CTBG 1979, theo ông có bài học quan trọng nào chúng ta cần rút
ra?
Qua cuộc chiến tranh này, chúng ta phải
nhận thức được bản chất của lãnh đạo TQ. Về bản thân người dân TQ, tôi nghĩ về
cơ bản là hòa hiếu, muốn giao hảo, hữu nghị với VN.
Là một nước láng giềng chung đường biên
giới 1.450 km với chúng ta, không thể không hiểu họ.
Với tập đoàn lãnh đạo TQ vào thời kỳ
1979 và ít ra trong khoảng 10 năm sau đó, toàn bộ hệ thống lý luận Mác - Lê nin
không có điểm nào biện minh cho việc lãnh đạo nước này xâm lược VN – một quốc
gia trong hệ thống XHCN cả.
Qua cách xâm lược đó, tập đoàn lãnh đạo
TQ cho thấy họ là ai? Họ theo Chủ nghĩa Mác hay theo Chủ nghĩa bá quyền nước
lớn?
Quan hệ 16 chữ vàng hay cái gì đi nữa
cũng sẽ chỉ là “ứng vạn biến”. Còn cái “dĩ bất biến” luôn phải là độc lập, chủ
quyền của Tổ quốc. Không được mơ hồ lấy cái “ứng vạn biến” để thay “dĩ bất
biến”.
-Có một thực tế mà chúng ta đều hiểu, VN là một nước nhỏ ở bên cạnh một
nước lớn như TQ, vậy chúng ta cần một triết lý ứng xử thế nào cho phù hợp?
Đây là một bài toán khó với hầu hết các
nước trong tình trạng tương tự. Chẳng hạn Canada, Mexico… khi ở cạnh Mỹ, hay
các nước nhỏ xung quanh Nga. Tất nhiên mức độ không như ta ở cạnh TQ.
Trong trường hợp này, tôi thấy có thể
dẫn ra 1 câu nói của ông Lý Quang Diệu, mà tôi coi như một trong những câu hay
nhất thế kỷ. Đại ý rằng thời nào cũng thế, cá lớn nuốt cá bé. Vì thế Singapore
phải biến thành một con cá bé độc, để không ai dám ăn, ăn là chết.
Đó cũng là một gợi ý tốt cho VN. Nhưng
làm như thế nào, câu trả lời thuộc về những nhà lãnh đạo!
Mỹ Hòa (thực hiện)
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Ảnh tư liệu |
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình:
Sòng phẳng với lịch sử
không phải kích động hận thù
Chiến tranh biên giới phía Bắc là một
câu chuyện buồn trong lịch sử, một câu chuyện buồn trong quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc. Dẫu vậy, nó vẫn là lịch sử.
Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó
với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17.2.1979, ngày mà cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã
hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và
tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương tổ quốc,
như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc
cũng như nhân dân các nước cũng phải hiểu đúng: đâu là sự thật, đâu là lẽ phải
và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.
Nhiều người dân Trung Quốc đã hiểu sai cơ bản về cuộc chiến tranh biên giới
đó. Nhưng tính chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến đó là sự thật không
thể chối cãi. Có thể nào nghĩ rằng Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh vô
cùng ác liệt kéo dài 30 năm, đang tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh và
đứng trước vô vàn khó khăn lại có thể khiêu khích Trung Quốc, một nước lớn, một
nước XHCN đã ủng hộ và giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh cứu nước vừa qua?
Thực tế là quân dân Việt Nam khi đó đã phải chống lại một cuộc chiến tranh biên
giới to lớn để bảo vệ biên cương tổ quốc.
Làm việc với đại diện Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng tình với đề xuất của GS Phan Huy
Lê rằng phải đưa mạnh dạn, đầy đủ hơn nữa những tài liệu về Hoàng Sa, Trường Sa
đã được kiểm chứng vào sách giáo khoa để giáo dục thế hệ trẻ.
Theo tôi, không chỉ đưa vào sách giáo
khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh
biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và
có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối
truyền thống . Tôi muốn nhấn mạnh rằng: ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với
lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để
hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối
cảnh phức tạp ngày nay.
Tôi ủng hộ con đường ngoại giao khôn
ngoan, mềm mỏng, tôn trọng các nguyên tắc quốc tế. Kinh nghiệm trong đấu tranh,
né tránh hay im lặng đều không có lợi, vì như vậy chúng ta không làm rõ được sự
thật, phải trái, đúng sai, có khi còn khuyến khích đối phương, khiến họ cho
rằng ta yếu thế và ngày càng lấn tới. Tuy nhiên không bình tĩnh cân nhắc trong
ứng xử cũng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, không có lợi cho sự nghiệp.
Vậy bài học rút ra từ quá khứ mất mát
của chúng ta là gì đây? Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu. Xưa đến nay, ta rất
chú trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc dù trong lịch sử hai
nước đã có bao lần xung đột. Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần một môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và cần những bạn bè
tốt để hợp tác nên Việt Nam càng coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc –
một nước lớn đang có những bước phát triển thần kỳ.
Nhưng như bất cứ dân tộc nào, chủ quyền
quốc gia đối với Việt Nam là thiêng liêng và chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ bằng
mọi giá, đồng thời chúng ta chủ trương mọi tranh chấp lãnh thổ được giải quyết
bằng phương pháp hòa bình, có sự tôn trọng lẫn nhau.
Trong đấu tranh, chúng ta đã làm đúng
theo lời dạy của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn giữ vững lập trường
nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhưng vẫn linh hoạt, mềm dẻo
trong sách lược.
Tôi tin vào sức mạnh của chính nghĩa,
của lẽ phải, tin vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và tin ở sự đồng tình
và ủng hộ của nhân dân thế giới. Ta cần hành động theo tinh thần đó. Nhưng tôi
cũng muốn nhấn mạnh rằng sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội
lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với
đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn
đấu.
Lan Hương(ghi)
Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979. Ảnh tư liệu |
Trung tướng Khuất Duy Tiến, nguyên Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng
tham mưu (Bộ Quốc phòng), Tư lệnh Quân đoàn 3:
Thiếu quân chủ lực vẫn
đánh thắng
Khi Trung Quốc tràn sang (với vũ khí hiện đại như xe tăng, máy bay), ta chỉ
có Sư 3 Sao Vàng là chủ lực, còn lại là dân quân… Thời điểm đó quân chủ lực
đang chiến đấu ở Campuchia. Trung Quốc nghĩ rằng ta không có quân chủ lực thì
có thể sẽ đánh nhanh, thắng nhanh. Song, tinh thần chiến đấu ý thức giữ vững
độc lập chủ quyền của người dân Việt Nam rất cao, nên đã chặn đứng quân Trung
Quốc ở biên giới. Chỉ là dân quân địa phương mà đánh như vậy, khi gặp lực lượng
chủ lực thì sao?
Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã
dạy chúng ta rằng, phải giữ lấy chủ quyền dân tộc, quốc gia nhưng phải tỉnh
táo, khéo léo chớ gây ra chiến tranh. Tôi nghĩ rằng, trong năm nay hoặc sang
năm phải có cuộc hội thảo xác định rõ cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979 là
xâm lược Việt Nam, những chiến sĩ, người dân đã hy sinh trong chiến đấu để bảo
vệ tổ quốc trong cuộc chiến này phải được công nhận là anh hùng, liệt sỹ. Dân
tộc Việt Nam là dân tộc đời đời, bất di bất dịch nguyên tắc giữ vững toàn vẹn
lãnh thổ. Đó là bài học mà từ già đến trẻ đều phải nhớ. Dân tộc độc lập thì mới
tạo dựng được cuộc sống như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói là không gì quý hơn
độc lập tự do. Để giữ được điều đó, về đối nội phải giáo dục cho người dân lòng
yêu nước, luôn xây dựng đất nước như mục tiêu chúng ta đã đưa ra xây dựng đất
nước dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ văn minh. Về đối ngoại thì thật khôn khéo,
tỉnh táo, “lưỡi gươm thật sắc, nhưng bao giờ cũng phải sẵn sàng”. Làm sao cho
thế giới hiểu, và đồng tình, giúp đỡ chúng ta. Làm sao cho họ thấy chúng ta là
tấm gương độc lập tự do dân chủ, yêu chuộng hòa bình, xây dựng đất nước ngày
càng phát triển.
H.Vũ(ghi)
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy:
Trung Quốc phải thừa
nhận
Việc xảy ra cuộc chiến tranh biên giới
17/2/1979 do Tung Quốc phát động, nguyên nhân chủ yếu là do phía Trung Quốc. Họ
xứng đáng nhận sự lên án mạnh mẽ. Bởi vì dù cho có bất đồng quan hệ hai nước,
TQ không thể mang quân đi đánh một nước láng giềng, từng là đồng minh của Trung
Quốc, với một câu nói của Đặng Tiểu Bình là “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Suốt 35 năm qua, Trung Quốc không lúc
nào ngừng tuyên truyền trong nội bộ họ về cuộc chiến tranh biên giới. Các bài
báo, các tác phẩm văn học, các tác phẩm điện ảnh… đều nêu lên một điều là họ đã
thắng lớn trong cuộc chiến đó.
Nhưng riêng năm nay, đúng ngày 4.1.2014,
mạng Nhân dân Trung Quốc lần đầu tiên đăng một bài viết “Cuộc đánh trả tự vệ
thảm liệt năm 1979: Quân đội Trung – Việt trong 19 ngày đều bị tổn thất và
thương vong 50 nghìn người”. Sau đó bài này được mạng Phượng Hoàng đăng lại.
Tức là lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận rằng trong cuộc chiến tranh cách đây
35 năm trong 20 ngày đầu tiên tổn thất về người của cả hai bên là như nhau,
khác hoàn toàn với quan điểm trước đó là Trung Quốc đã thắng cuộc chiến tranh
đó.
Như vậy, đấy là sự thực mà trước đây họ
che giấu nhân dân Trung Quốc, và họ cuối cùng phải thừa nhận rằng đây là cuộc
chiến tranh rất đẫm máu.
H. Phan(ghi)
Xe tăng Trung Quốc bị ta bắn hạ tại Cao Bằng, sáng 17-2 - Ảnh: Mạnh Thường |
Đạo diễn Trần Văn Thủy:
Luận về cuộc chiến,
cần sự ngay thẳng
Năm 1978, trở về từ Liên Xô sau khóa học
về đạo diễn, ông Trần Văn Thủy được giao làm phim về cuộc chiến tranh biên
giới. Bộ phim có tên Phản Bội, được giải Vàng tại Liên hoan phim Việt Nam
1986. Ông chia sẻ:
Từ khoảng tháng 3/1978, đã bắt đầu có
những dấu hiệu bất đồng. Linh tính mách bảo tôi: chiến tranh sẽ xảy ra, thời
điểm đó có những vấn đề khác nổi lên như “nạn kiều”, Bắc Luân.. Tất cả
các nhà làm phim tài liệu trong Nam ngoài Bắc đều được đưa lên vùng biên giới.
Tình hình xấu đi rất nhanh và cuộc chiến
đã xảy ra. Tôi được phân công làm bộ phim tài liệu rất dài, gần 3 tiếng, dài
nhất trong lịch sử phim tài liệu Việt Nam, sau này được đặt tên là Phản Bội.
Nỗi mất mát đau đớn của đồng bào 6 tỉnh
phía bắc… Với số đông người Việt Nam, họ sững sờ và kinh hoàng không thể tưởng
tượng được. Từ Lào Cai sang Cao Bằng, Lạng Sơn… chúng tôi đã chứng kiến và lắng
nghe những câu chuyện vô cùng đau đớn. Luận bàn về cuộc chiến này cần nhiều
giấy mực, thời gian và cả sự ngay thẳng.
Tính từ thời điểm đó đến nay đã mấy chục
năm, nhưng vết đau ấy vẫn không thể xóa. Nếu ngày hôm nay, vì bất cứ lý do gì,
mà ta lãng quên đi những con người đã ngã xuống trong một cuộc chiến cực kỳ vô
lý và tàn bạo ấy, sẽ là một tội lỗi vô cùng lớn. Tôi đã nói điều này trong cuốn
Chuyện nghề của Thủy.
Bộ phim Phản bội khi đó được đón nhận
hào hứng. Vào thời điểm đó, nó phù hợp với thái độ của người dân Việt Nam
về chuyện chủ quyền đất nước, và sự phẫn nộ với cuộc chiến tàn bạo. Người xem
bất ngờ và đồng tình về sự hấp dẫn, độ chính xác về lịch sử và những vấn đề đặt
ra. Có thể nói trong tất cả những bộ phim của tôi chưa từng làm có sự đồng
thuận của tất cả mọi người, mọi cấp như thế. Bộ phim đã được chiếu rất
nhiều lần, ở nhiều nơi, được nhận giải vàng Liên hoan phim Việt Nam 1980.
H. Hường(ghi)
Nhóm thực hiện: Mỹ Hòa
- Lan Hương - H.Vũ - H.Phan - H.Hường
Tóm tắt diễn biến chính Chiến tranh biên giới phía
Bắc 1979
Rạng sáng ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã
điều động một lượng lớn quân đội và vũ khí hiện đại nhất mà họ có lúc đó tấn
công vào 6 tỉnh biên giới phía bắc nước ta.
TQ đã huy động 60 vạn quân (chưa kể dân công hỏa tuyến phục vụ), tấn công trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh
đến Phong Thổ dài trên 1.000 km, tập trung vào 3 khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng,
Lào Cai với Lào Cai là trọng điểm. Ngoài ra TQ còn mang theo mấy trăm máy
bay, và một số tàu chiến thuộc hạm đội Nam hải sẵn sàng tham chiến khi cần
thiết.
Thời gian tấn công: Cuộc tấn công của TQ vào lãnh thổ VN bắt đầu từ ngày
17/2/1979 và kết thúc ngày 16/3/1979, có thể chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn
tấn công và giai đoạn rút lui.
Giai đoạn tấn công: thời gian 17 ngày (từ 17/2 đến 5/3/1979):
Ngày 17/2-19/2: Quân đội TQ đột kích trên toàn tuyến
biên giới dài trên 1.000 km chiếm một số vị trí tiền duyên của ta.
Ngày 20/2: Chiếm thị xã Lào Cai, thị trấn Đồng Đăng.
Ngày 21/2: Chiếm thị xã Cao Bằng
Ngày 22/2: Chiếm thị trấn Bảo Lộc
Ngày 23/2: Chiếm thị xã Hà Giang
Ngày 24/2: Chiếm thị trấn Cam Đường
Các ngày sau đó 2 bên đánh nhau dữ dội tại vùng gần
Lạng Sơn, Sapa. Ngày 5/3 TQ chiếm Sapa và một phần thị xã Lạng Sơn.
Ngay trong ngày hôm đó (5/3), TQ tuyên bố đã đạt mục
đích, bắt đầu rút quân khỏi VN. VN tuyên bố tổng động viên toàn quốc. Một sư
đoàn chính quy VN điều từ Campuchia và Lào đã về tới sát mặt trận. Liên Xô
bắt đầu tăng quân tới biên giới Trung Xô.
Giai đoạn rút lui: thời gian 10 ngày (từ 6/3 đến 16/3/1979):
Kể từ lúc quân đội TQ rút lui, bộ đôi VN không tấn
công, truy kích địch.
-Quân TQ bắt đầu rút khỏi một phần của thị xã Lạng
Sơn từ 5/3, đến 12/3 rút hết khỏi Đồng Đăng.
-Bắt đầu rút khỏi vùng Lào Cai từ 7/3 đến 13/3 thì
rút hết
-Bắt đầu rút khỏi vùng Cao Bằng từ 7/3, đến 14/3 thì
rút hết.
Ngày 16/3/1979 TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân,
chiến tranh kết thúc.
Thống kê thương vong (tài liệu do Nhà nghiên cứu
Dương Danh Dy cung cấp):
Một thống kê chính thức của Đài Loan phản ánh,
số người chết của phía Trung Quốc là 26.000; của phía Việt Nam là 30.000
người.
Số bị thương: Phía Trung Quốc là 37.000 người. Số
thương vong phía Việt Nam là 32.000 người.
Về số bị bắt sống, phía Trung Quốc là 260 người.
Phía Việt Nam là 1.600 người.
(theo Yisheng.chinese.com)
Trong cuộc chiến tranh này, TQ đã phá hoại hoàn toàn
4 thị xã, hơn 20 thị trấn, huyện lỵ, nhiều làng xóm, nhà máy, hầm mỏ, nông
trường, cầu đường, nhà cửa… của nhân dân ta tại những nơi chúng đi qua.
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire