NGÀI ALEXANDRE DE
RHODES, ISFHAN, BA TƯ, 5/11/2018
GS Nguyễn Đăng Hưng
Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ
Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt
Đại học Duy Tân Đà Nẵng
Kính thưa các vị
khách quý,
Basalame khanoomha
va agkayan
Thưa các bạn
Vẫn biết lúc ban
đầu các giáo sỹ cơ đốc chỉ muốn tạo dựng một phương tiện hữu hiệu để truyền
đạo, nhưng tính cách nghiêm túc và khoa học của công trình của họ đã cho ra đời
một sản phẩm văn hóa tuyệt vời giúp cho người Việt có cơ hội nhanh chóng hòa
nhập với thế giới văn minh, giúp các trẻ em Việt Nam có thể nhanh chóng biết
đọc và biết viết, thoát ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ
Trung Hoa.
Các chí sỹ yêu nước
của các phong trào canh tân đất nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… đã sớm
ý thức được lợi thế này và đã chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện truyền bá những
tư tưởng dân chủ tiến bộ, mưu cầu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực
dân Pháp.
Sự ra đời và phổ
biến của chữ quốc có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý,
các cộng tác viên người Việt, các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan
Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa
Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn
Can, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của
Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ: Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn,
Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang.... Họ đã là những nhân tố tích cực cho
việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc
lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam
Nhưng
công đầu có lẽ thuộc về cha Alexandre de Rhodes.
Năm 1651 sau khi bổ sung và hoàn thiện các công trình
tiếng Việt khởi đầu từ các công trình của các giáo sỹ Bồ Đào
Nha (Francisco De Pina, Gaspar De Amaral, Antonio Barbosa)
ngài cho ra đời tại Roma, quyển tự điển Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum), công bố khoa học đầu tiên về Tiếng Việt và
cách viết dùng ký tự La Tinh.
Đây
là cả một nỗ lực, khổ luyện cá nhân hiếm có. Cha ADR đã ghi lại:
Khi
tôi vừa đến đàng trong VN và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi
có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu
lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được
một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi,
khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài
giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và
Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng
Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4
tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể
giảng được bằng tiếng Việt. ..
Cha
ADR đã góp phần to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn
minh trước hơn 350 năm so với các nước khác tại Á Châu!
Đây
cũng là thành quả giao lưu văn hóa Âu-Á trong sáng và trường tồn vào bậc nhất
của nhân loại. Có công trình giao lưu văn hóa nào ngay thế kỷ 17 mà đã có hợp
tác của đông đảo các quốc tịch: Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Hoa,
Pháp và Việt Nam... đế sáng tạo, hình thành và đạt kết quả mỹ mãn như tiếng
Quốc Ngữ mà ta có ngày nay?
Hôm
nay, chúng tôi, những phó thường dân từ Việt Nam xa xôi, là hướng dẫn viên du
lịch, là chuyên gia nhiếp ảnh, là nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giáo
sư đại học, đến từ Nam, Trung, Bắc, có người định cư ở nước ngoài hồi hương,
chúng tôi vượt không gian trên 6000 km tụ tập về đây, nhân ngày giỗ thứ
358 của ngài.
Chúng
tôi kính cẩn đặt bia tri ân, với tư cách là người Việt Nam, nói tiếng Việt và
sử dụng mỗi ngày Chữ Quốc Ngữ.
Chúng
tôi ghi rõ lòng biết ơn của chúng tôi lên bia đá:
“Tri ân Cha Alexandre de Rhodes
đã đóng góp to lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ - chữ Việt viết theo ký
tự Latinh” (We are very grateful to Father Alexandre de Rhodes who
contributed greatly to the creation of Chữ Quốc Ngữ, Vietnamese script using
the Latin alphabet).
Chúng tôi cũng mang sang đây một tấm bia ngắn, cho
khắc in chân dung ngài và hình ảnh cuốn từ điển trứ danh của ngài.
Chúng tôi tin tưởng rằng từ nay, tấm bia đá lấy từ
Quảng Nam này, nơi ngài lần dầu đặt chân đến học tiếng Việt, sẽ mãi mãi đứng
dưới chân ngài, đem đến cho ngài hơi ấm của lòng biết ơn sâu sắc của người Việt
chúng tôi!
Thật vậy, Chữ Quốc Ngữ đã quyện cùng tiếng Việt, thấm
vào hồn người Việt và trong giai đoạn khó khăn đầy bất trắc hôm nay của đất
nước, chúng tôi tin tưởng không gì có thể lay chuyển được được là
Vinh danh Chữ Quốc Ngữ chính là bảo tồn tiếng Việt,
chính là bảo vệ đất nước Việt Nam!
Xin cám ơn quý vị…
Sepas gozaram
GS Nguyễn Đăng Hưng
Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn
Tiếng Việt
Đại học Duy Tân Đà Nẵng
Hà Nội ngày 8 tháng 11 năm 2018
Kính gửi GS. Nguyễn Đăng Hưng cùng các thầy, các anh
chị
Sau chuyến đi Hà Nội để “hội kiến với sỹ phu Bắc Hà”
như thầy thường nói vào đầu năm nay, thầy đã tự tổ chức được hai chuyến đi đến
tận nơi đặt mộ Alexandre de Rhodes và đã đặt được bia tưởng niệm cùng những lời
tri ân với người có công lớn trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ QN, đó là một
việc có thể nói là phi thường, rất đáng trân trọng.
Trong diễn văn, thầy cũng đã tổng hợp được nhiều ý
kiến hay trong cuộc hội kiến nói trên, để từ đó có những đánh giá chính xác hơn
về A. Rhodes, khác với một số nhận thức lệch lạc, chưa chính xác ban đầu của
nhiều người, như cho rằng chữ QN ưu việt hơn thứ chữ như con giun của người
Việt cổ, như cho rằng tất cả công lao sáng chế chữ QN thuộc về A. Rhodes mà
không biết đến các thế hệ trí thức người Việt đã góp sức như thế nào,…
Tuy nhiên cũng phải nói thẳng rằng trong bài diễn văn
còn một số nhận định chưa chính xác. Em xin nêu mấy điểm:
1. Cho rằng nhờ có chữ QN mà dân tộc ta “thoát
ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ Trung Hoa”
Ở đây có hai sai lầm: a) Thực ra chữ
Hán có nhiều nguyên tắc ghi, tượng hình chỉ là một cách và chiếm phần nhỏ. b)
Trong các nguyên tắc của chữ Hán có nguyên tắc “ghi ý” là một ưu điểm mà hầu
hết các thứ chữ ghi âm không thể có được. Mặt khác, quan trọng hơn, chữ nào phù
hợp với tiếng đó. Các chữ viết của các nước châu Âu dùng nguyên tắc ghi âm, rất
phù hợp với thứ tiếng “đa âm” của họ. Còn tiếng Việt cũng như tiếng Hán là
tiếng “đơn âm” (đơn tiết/phân tiết), phải dùng thứ chữ “vuông” (như chữ Hán,
chữ Nôm) – mỗi tiếng tương ứng mỗi chữ – mới thực sự phù hợp. Trong các tiếng
“đơn âm”, luôn tồn tại rất nhiều từ và tiếng đồng âm, nếu ghi bằng chữ “vuông”
sẽ phân biệt các đơn vị đồng âm trên mặt chữ. Đó cũng là một trong những lý do
người TQ không chọn con đường Latin hoá chữ viết của mình. Chữ QN – không rõ do
chủ đích của người sáng chế hay do sựa lựa chọn của dân mình – mà đã vận dụng
cách ghi rất sáng tạo: tuy dùng hệ thống chữ cái Latin nhưng lại ghỉ rời âm
tiết, ví dụ viết “tinh anh” chứ không viết “tinhanh” (sẽ đọc ti nhanh/ tin hanh).
Đặc biệt giữ lấy hình thức nào có giá trị ghi ý, như viết gia
đình/ da thịt (trong khi âm đầu đều là âm /z/, theo nguyên tắc ghi âm
thì phải nhập hai chữ trên là một).
Cũng cần biết rằng những người có vai trò quyết
định dùng chữ QN thay chữ Hán là các sỹ phu nho học đầu thế kỷ XX. Không
phải họ thấy chữ QN ưu việt hơn chữ Hán đâu. Mà để có ngay một thứ văn tự của
dân tộc, giúp dân tộc thoát khỏi tình trạng “tiếng, chữ khác nhau” – tức
là người Việt nói tiếng Việt nhưng lại dùng chữ Hán – một tình trạng đã diễn ra
hàng nghìn năm. Có chữ Nôm là chữ của dân tộc nhưng lại chưa hoàn thiện, và đặc
biệt phải biết chữ Hán mới học được chữ Nôm, không phù hợp với tình hình cấp
bách lúc đó là cần hiện đại hoá đất nước nhanh chóng.
2. Nhận định “Cha ADR đã góp phần to lớn, giúp
cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn minh trước hơn 350 năm so
với các nước khác tại Á Châu!”
Đây là một nhận định không đúng thực tế. Chữ QN được
A. Rhodes hoàn thiện vào năm 1651 nhưng không phải có nó là VN hội nhập với thế
giới. Suốt mấy trăm năm sau đó chữ QN chỉ dùng trong nhà thờ (với số dân theo
đạo ít ỏi ở VN). Văn tự về các mặt chính trị, ngoại giao, văn học, khoa học,…
vẫn là chữ Hán (trong VN có một phần chữ Nôm). Khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX,
chữ QN được dùng vào báo chí và sáng tác văn học ở Nam Bộ, nhưng Nam Bộ lúc ấy
là một vùng cư dân thưa thớt, chưa có mấy vai trò về văn hoá. Phải từ những năm
ba mươi của thế kỷ 20 – xã hội VN mới thực sự “hoà nhập với thế giới văn minh”
– cũng trùng với thời điểm chữ QN được sử dụng rộng rãi trong báo chí, văn học
ở khắp ba miền Bắc Trung Nam.
Thực sự thì khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Nhật Bản và
Thái Lan hiện đại hoá đầu tiên – từ khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX. VN chậm hơn
mà lại không thành công triệt để (đến 1945 nông thôn VN vẫn rất lạc hậu và nhát
cắt 8/1945 khiến con đường hiện đại hoá bị đứt đoạn và từ bấy cho đến nay vẫn
là dang dở.
3. Toàn bài diễn văn toát lên một điều: cứ như nhờ có
chữ QN, môt thứ chữ Latin hoá, dân VN mới văn minh lên được.
Thực ra văn minh hay không là do vấn đề tư tưởng và
chế độ chính trị, chứ không phải do chữ viết thuộc hệ chữ nào. Nhật Bản, Hàn
Quốc không Latin hoá chữ viết, vẫn dùng thứ chữ chế từ chữ Hán, thế mà vẫn văn
minh hiện đại. Thái Lan dùng thứ chữ “như con giun” vẫn cứ văn minh hiện đại.
Việc lựa chọn chữ QN do thời điểm lịch sử tạo nên, nó
có cả những ưu điểm và cả những hạn chế (đọc sách của học giả Cao Xuân Hạo sẽ
rõ hơn điều này). Chúng ta đánh giá đúng thì cũng mới tôn vinh đúng và được xã
hội thừa nhận.
Trên đây là vài ý kiến viết nhanh. Một lần nữa xin cảm
ơn GS. Nguyễn Đăng Hưng. Nếu có gì không phải xin thầy lượng thứ và mong thầy
Nguyễn Đăng Hưng cùng các thầy, các anh chị trao đổi lại.
Kính thư
Đào Tiến Thi
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire